ÔNG
CHỦ NHỎ
Đã qua tiết đông chí, hôm nay đài báo gió
mùa đông bắc tăng cường đem theo cái lạnh thấu xương mỗi khi ra đường. Cuối năm
công việc càng trở nên gấp gáp hơn, thời gian hối thúc mọi người chạy đua với
nó. Cái rét năm nay cũng chưa thấm vào đâu so với mấy năm trước. Tôi phóng xe
trên đường về Làng Lân, con đường đã được bê tông hóa một phần, phần còn lại
đang được thi công gấp rút cho kịp hoàn thành trước tết nguyên đán. Đường làng
mở rộng 6 mét thỏa sức cho các phương tiện ô tô qua lại. Con đường làng là dấu ấn
đầy ấn tượng trong phong trào xây dựng nông thôn mới hiện nay ở quê tôi. Thế là
chỉ ít ngày nữa thôi con đường được khánh thành đáp ứng sự mong mỏi của bà con
bấy nay và làng tôi sẽ đẹp như tranh vẽ, chả thua kém ai! Đường làng ngõ xóm
thông quang, nhìn mọi người qua lại ai cũng tươi vui, khiến khách lạ đến làng
cũng cảm thấy ngỡ ngàng và vui lây! Tôi về làng lần này cốt tìm gặp Nguyễn Huy
Dũng, một chàng thanh niên hiện có tay nghề cao, chuyên làm đồ gỗ mỹ nghệ cao cấp.
Nguyễn Huy Dũng sinh ra và lớn lên tại Làng Lân, trước đây cùng xóm với tôi.
Dũng sinh năm 1982, với tôi, anh thuộc hàng con cháu trong làng. Kể từ khi rời
làng ra phố, tôi ít gặp lại Dũng. Và cũng do cuộc mưu sinh nên tôi cũng chẳng mấy
quan tâm đến bà con dân làng cũ nữa. Chỉ gần đây thấy mấy anh bạn tìm đến hỏi
thăm và mua hàng mỹ nghệ của Dũng nhiều tôi mới lại nhớ tới cậu ta.
Tôi dừng xe trước xưởng mộc của Dũng, cảm
nhận đầu tiên của tôi là sự ồn ã, hối hả, không khí lao động hết sức khẩn
trương, tiếng máy cưa, máy đục, máy mài xiết trên thớ gỗ nghe đến chói tai, mấy
người thợ đang chăm chú vào công việc của mình. Gỗ và gốc cây vứt ngổn ngang
trong xưởng. Mãi khi tôi bước vào xưởng gọi lớn, lúc đó Dũng mới nhận ra tôi,
anh vội dừng tay máy, bỏ cặp kính bảo hộ xuống và vui vẻ mời tôi lên nhà:
-
Ôi chú vào chơi!
Mời chú lên nhà, chứ ở đây bụi và ồn lắm.
Tôi theo chân Dũng bước vào nhà, tôi không tin ở mắt mình, tôi như lạc
vào một thế giới cổ tích, những pho tượng Di Lặc,Thần Tài, những Hổ, Báo, Đại
Bàng, Sư Tử…tất cả đều rất sống động và đẹp long lanh…Tôi thật không ngờ anh
chàng này lại có đôi bàn tay khéo léo đến vậy. Dũng pha nước mời tôi uống. Sau
phút giây nhìn ngắm những tác phẩm bày trong gian nhà nhỏ, tôi bắt đầu câu chuyện.
-
Này thế cháu đi học nghề này từ bao giờ nhỉ? Quả
chú thấy các đường nét đục chạm của cháu rất sắc nét và tinh tế như thật vậy.
-
Cháu đi học lâu lẳm rồi. Hoàn cảnh của cháu chú
biết quá rõ còn gì. Khi đó do túng quẫn và cũng chẳng có cách gì khác, bà cháu
đã gửi cháu về quê nội cho họ hàng bên nội truyền dạy nghề này, từ khi cháu mới
11 tuổi chú ạ!
Nghe đến đây trong đầu tôi bỗng hiện lên hình ảnh một thằng bé, lủn củn,
thường những trưa hè vẫn lê la quanh quẩn bên bờ ao dưới bóng mát của mấy bụi
tre nhà tôi, bộ quần áo lấm lem bùn đất, mặt mũi lúc nào cũng nhọ nhem, nó chỉ
có một mình và cũng chỉ chơi một mình như thế. Nhiều hôm tôi bắt gặp nó đầu đội nón mê
hì hụi móc cua ven bờ ruộng giữa trưa hè nắng như đổ lửa. Đó chính là Dũng.
Hoàn cảnh của cậu bé cũng rất đặc biệt, bố mẹ cậu sinh được bốn người con trong
đó Dũng là con út, trên Dũng là hai người anh và một chị gái. Khi Dũng được 4
tuổi thì cả bố mẹ đều lần lượt qua đời, người chị gái trước đó theo bố mẹ phiêu
bạt không biết sống ở đâu. Người anh cả cũng đã chết vì nghiện ma túy, người
anh thứ ba lang bạt về tận Bắc Giang làm ăn và lấy vợ ở dưới đó. Dũng ở với bà
nội khi ấy bà cũng đã hơn 70 tuổi. Cảnh nhà thật túng quẫn, nên Dũng không được
chăm sóc chu đáo, Dũng thiếu thốn tình cảm, vì thế đâm ra lầm lỳ, ít nói, chỉ lủi
thủi một mình như thế. ..Vừa ngắm nhìn những pho tượng tôi vừa chiêu một ngụm
chè và hỏi:
-
Cháu có thể kể cho chú nghe sơ qua về cuộc sống
của cháu kể từ khi về quê học nghề được không?
-
Khi bố mẹ cháu mất, cháu ở với bà nội, lên 6 tuổi
cháu được đi học lớp 1 khi học hết lớp 3 vì bà cháu già yếu không thể nuôi cháu
ăn học được nữa, vậy là cháu phải nghỉ học ở nhà giúp bà làm mọi việc như hái
chè, kiếm củi, chăn gà... Thấy hoàn cảnh gia đình như thế cộng với sức khỏe của
bà cháu cũng ngày một yếu vậy là bà đã gửi cháu về quê nội ở Cẩm Giàng – Hải
Dương để học nghề. Họ hàng thấy vậy cũng cưu mang cho cháu học nghề mà không mất
tiền. Cháu học nghề hơn 2 năm. Đến cuối năm 1995, khi đó cháu 13 tuổi, tay nghề cũng đã thông thạo vậy là cháu xin đi
làm thuê cho các lò nghề để tự nuôi sống mình. Ban đầu cháu lên thành phố Hải
Dương, sau đến Đồng Kỵ - Bắc Ninh, rồi lên Chiêm Hóa – Tuyên Quang… Khi đó cứ
ai rủ là cháu đi với suy nghĩ làm việc để kiếm sống thôi chú ạ! Tiền công làm
cho các lò cũng rất rẻ, cháu chỉ được trả có 100.000 đồng/ tháng, tương đương với
1 triệu đồng thời nay, chủ xưởng luôn bắt thức khuya, dậy sớm làm lụng vất vả
mà nhiều khi không đủ tiêu chú ạ! Vậy là đến năm 1998, cháu lại theo mọi người
đi làm vàng 2 năm, song cũng chẳng được
gì, lúc đó cháu mới quay về làng tự mở xưởng làm.
Dũng kể đến đây rồi dừng lại, nét mặt
thoáng trở nên ưu tư, có lẽ lúc này đây Dũng đang nhớ lại những ngày tháng phải
tha hương, lam lũ kiếm sống nơi đất khách quê người, hay là sự tủi cực của những
ngày thơ bé, phải sống côi cút bên bà chăng? Hẳn những dấu ấn ấy sẽ còn hằn sâu
mãi trong tâm trí của Dũng. Tôi hỏi Dũng cốt để xua đi phút ưu tư đó:
-
Thế khi đó cháu lấy đâu ra vốn mà mở xưởng ?
-
Cũng may khi cháu về nhà đời sống kinh tế của
dân làng khi đó cũng khá lên nhiều, trong vùng nhiều người mở xưởng mộc, nhưng
thợ đục chạm trên mình khi đó rất ít, thế là cháu tìm đến các xưởng mộc ở quanh
vùng nhận gỗ của họ về làm tại nhà. Cứ thế mọi người biết cháu có tay nghề tốt
và họ tìm đến thuê cháu làm.
-
Khi ấy cháu đục chạm những gì?
-
Thời đó cháu chuyên đục lèo tủ, bệ tủ, bệ giường,
bàn thờ, các bức trương bàn ghế xalon… lúc ấy ít thợ những dịp giáp tết, việc
nhiều, làm không kịp, cháu phải rủ thêm bạn về làm cùng. Cứ thế công việc làm
ăn ngày một ổn định và phát triển nhưng vẫn chủ yếu là làm thuê lấy công thôi.
-
Thế cháu mở xưởng này từ bao giờ? Sao cháu lại
chuyển sang mặt hàng tượng, mỹ nghệ và con giống này?
-
Tích góp mãi, năm 2004 cháu lấy vợ, rồi có con, áp lực ngày càng cao, nhận thấy
công việc cũ ngày một ít, lý do nhiều xưởng mộc lớn người ta đã có máy, chỉ cần
lập trình và đưa vào máy thôi thì các bức chạm nhanh chóng ra lò, độ chính xác
lại rất cao, và rất đẹp, trăm bức đều giống nhau y hệt luôn, vậy nên đục thủ
công như bọn cháu tốn nhiều thời gian, tiền công vì thế bị đẩy cao, nên việc ít
đi không còn như trước nữa. Từ năm 2009 cháu chuyển hướng sang làm đồ gỗ mỹ nghệ.
Đây là một lĩnh vực mới mà ở địa phương mình chưa có người nào làm. Nghĩ thế nhưng phải mãi đến năm 2012 cháu mới có tiền
để mở xưởng. Riêng tiền xây dựng nhà xưởng, máy móc cũng lên đến 300 triệu đồng,
lại còn vốn mua gỗ, mua máy móc và tiền thuê thợ nữa, phải nói đó cũng là một nỗ
lực rất lớn của bản thân cháu chú ạ! – Nói vậy rồi Dũng nhoẻn miệng cười tươi,
có lẽ đây là phút giây Dũng cảm thấy mình thật hạnh phúc. Tôi hiểu, đó có thể
là điều ước thật giản đơn đối với mọi người nhưng đối với Dũng thì đó là cả một
sự nỗ lực phấn đấu vô cùng lớn lao, bởi cảnh mồ côi, với hai bàn tay trắng, giờ
Dũng đã là một ông chủ nhỏ có gia đình, với một cơ ngơi, tuy còn nhỏ bé nhưng
cũng rất đáng tự hào.
Nghe Dũng kể đến đây, tôi thấy rất mừng cho
Dũng, không muốn làm mất thời gian của cậu ta, tôi liền bảo Dũng đưa tôi ra xưởng
vừa làm, vừa nói chuyện cho tiện. Dũng cùng tôi trở lại xưởng, hàng chục gốc
cây và thân gỗ to đang được cánh thợ định hình, tạo dáng, theo sự chỉ dẫn của
Dũng. Dũng bảo tôi:
-
Làm đồ mỹ
nghệ này đòi hỏi người làm nghề phải có con mắt thẩm mỹ, biết tự định hình, tạo
dáng cho tác phẩm, điểm nhấn của các sản phẩm là những khuôn hình, độ tương xứng
của các hình khối, từ hình các con thú đến cây cối, hoa lá đều phải cân xứng,
hài hòa, đường nét phải tinh xảo, uyển chuyển mới được.
-
Vậy các công đoạn để tạo tác một sản phẩm là gì?
-
Nó gồm nhiều công đoạn chú ạ ! Như mấy cậu này
đang cắt tỉa những phần thừa của gốc cây, thân cây, đây gọi là phần làm thô,
sau phần làm thô đến phần tạo dáng, định hình, đây là công đoạn khởi đầu để
hình thành nên cấu trúc của sản phẩm. Tiếp sau là phần làm tinh, đây là công đoạn
khó nhất, đòi hỏi tay nghề cũng như sự tỉ mỉ, cẩn trọng của người thợ, phải hạn
chế tối đa mọi sai sót, chỉ sai một ly là đã có thể tạo ra lỗi cho sản phẩm và
như vậy đồng nghĩa với sự mất giá chú ạ! Cuối cùng đến công đoạn đánh bóng và
sơn sản phẩm. Nói chung là rất cầu kỳ, không thể nóng vội được.
Thì ra nghề chơi
nào cũng đòi hỏi sự công phu riêng. Sự hời hợt không thể dẫn tới thành công.
Nhìn bàn tay những người thợ sử dụng
máy cưa, máy đục, máy khoan rất thành thục, dưới bàn tay họ những phần thừa của
gỗ dần dần được loại bỏ, hình dáng sản phẩm dần lộ ra. Nào hình Hổ, Báo, nào Khỉ,
nào Dơi, nào chùm nho, con Sóc… tất cả hiện lên như thật. Mỗi một sản phẩm đều
gắn liền với một điển tích, xem những sản phẩm của Dũng ta như thấy lũ chim thú
đó đang chạy nhảy quanh ta, chúng thật sự sống động và có hồn. Dũng dùng một chiếc máy nhỏ, đục rũa rất tỉ mẩn,
từng đường nét dần hiện ra, đây là khuôn mặt một chú khỉ, trông vừa tinh nghịch,
vừa ngộ nghĩnh, tôi bị cuốn vào công việc của Dũng mê mẩn không cả muốn về. Bằng bàn tay tài hoa, khéo léo và óc thẩm mỹ sáng
tạo tinh tế của Dũng, những khúc gỗ biến thành những sản phẩm thật sự có hồn,
nó làm mê mẩn lòng người khiến ai cũng thích thú. Những sản phẩm của Dũng không
chỉ mang hơi thở của cuộc sống thường ngày mà còn thể hiện trình độ cùng cái
tâm của người thợ, ẩn sâu trong từng sản phẩm còn mang cả bản sắc, tâm linh của
văn hoá Việt. Dũng cho tôi biết đồ gỗ mỹ nghệ có
cái hay là sử dụng được các loại gỗ tận thu, những gốc cây, đầu mẩu gỗ, xưa nay
mọi người thường bỏ đi, nhưng nay từ những gốc cây có thể làm ra những bộ bàn
ghế đắt đến vài chục triệu đồng. Những đầu mẩu gỗ cũng có thể làm nên những pho
tượng, những con thú tuyệt đẹp, hay những chiếc lục bình giá bán năm, bẩy triệu
đồng là thường. Hiện Dũng cũng cho tôi biết thu nhập bình quân của thợ còn
khiêm tốn cũng chỉ đạt mức 5 - 6 triệu đồng /tháng. Khi đông việc, thợ nào có
tay nghề cao Dũng trả lương tới 8 triệu đồng/ tháng. Vào cao điểm những dịp cuối
năm, Dũng nuôi 4 - 5 thợ, còn khi ít việc thì luôn có 2 thợ. Tổng
thu mấy năm gần đây bình quân cũng chỉ được 200 triệu đồng/ năm. Cái khó nhất của
nghề này theo Dũng cho biết đó là người thợ phải có khiếu thẩm mĩ và trí tưởng
tượng phong phú, ví như nhìn vào một gốc cây, một khúc gỗ mình đã có thể định
hình ra được sản phẩm, hai nữa là rất cần sự khéo léo của đôi tay cộng với sự
kiên trì, tỉ mỉ, khi làm việc phải tập trung cao độ, không được phân tán tư tưởng,
nhất là phải có cảm hứng thì tác phẩm mới đẹp, mới tinh tế. Tôi chỉ vào một gốc
cây và hỏi Dũng:
-
Hoàn thành một bộ bàn ghế thế này cần bao thời
gian? Và tiền công là bao nhiêu?
-
Trung bình mỗi bộ này làm nhanh cũng phải mất 1
tháng, đó là giờ có máy móc hỗ trợ nên mới nhanh thế, còn tiền công là 15 triệu
đồng.
Nghe Dũng nói vậy tôi lại hình dung ra
công việc của Dũng cũng có điểm giống đối với nghề viết, có cảm hứng thì bài viết
mới hay. Tôi thật sự cảm phục sự tinh tế và khéo léo của đôi bàn tay Dũng, anh
là người thổi hồn cho những khúc gỗ, gốc cây vốn vô tri, vô giác trở nên sống động,
có hồn và có giá trị góp phần làm đẹp cho đời. Tôi tin với sự chăm chỉ cùng đôi
bàn tay khéo léo của mình Dũng sẽ gặt hái được nhiều thành công trong cuộc sống.
Với những công việc này cũng là hướng đi mà Đảng và Nhà nước đang khuyến khích
để từng bước nâng cao đời sống cho nông dân để họ “ly nông mà bất ly hương”. Tạo
nên sự phát triển bền vững cho bà con.
Chiều quê những ngày cuối năm, lất phất
mưa bay. Những chiếc lá vàng rụng rơi lã chã mặt đường, mặc nhiên không khí lao
động trong xưởng mộc của Dũng vẫn hết sức hối hả, khẩn trương, làng quê sôi động
đổi mới từng ngày. Tôi nhớ như in nụ cười của Dũng, nó ẩn chứa bao niềm vui
trong đó.
Nguyễn Huy Dũng trong xưởng mộc. Nguyễn Huy Dũng bên một pho tượng
Đôi lục bình
No comments:
Post a Comment