MỘT THOÁNG HÀ GIANG
BÚT KÝ
Là
sinh viên khoa Quản lý văn hóa: Khóa 5, hệ tại chức trường Đại học Văn hóa Hà
Nội, tại Thái Nguyên nơi anh Giàng Mí Và - Phó Chủ tịch UBND xã Sủng Trái, huyện
Đồng Văn hiện đang học, anh có nhã ý mời chúng tôi lên thăm quê anh. Nhận lời anh, 6 giờ
sáng từ thành phố Thái Nguyên vượt chặng đường dài hơn 300km qua thành phố Hà
Giang và các huyện Cổng Trời, Quản Bạ có mây mù bao phủ có cột sóng truyền hình
và núi đôi Yên Minh phải đến 5 giờ chiều chúng tôi mới lên tới ngã ba Sủng Trái, hơn 9
tiếng ngồi xe ô tô trải qua những cung đường lên dốc, xuống đèo, được đặt chân
lên cao nguyên đá Đồng Văn nơi địa đầu của Tổ quốc. Cảm nhận đầu tiên của chúng
tôi là thiên nhiên nơi đây phần lớn diện tích là núi đá tai mèo. Đang tháng 6 thời tiết trên mảnh đất biên cương cũng không khác ở Thái Nguyên là mấy, đặc
trưng của cao nguyên đá là sức sống bền bỉ của những nương ngô nó gắn liền với
cuộc sống của người Mông. Nhà anh Giàng Mí Và ở lưng chừng núi, màu xanh của
những nương ngô đang kỳ trổ cờ và cây cỏ voi mới được bà con trồng cho trâu, bò,
dê, ngựa ăn cũng phần nào làm dịu đi sự cằn cỗi của núi đá Đồng Văn. Cỏ voi
được trồng quanh các nương, xen kẽ có các khóm bí được đồng bào trồng trong bãi,
đó là nguồn rau chính trong các bữa ăn thường ngày của đồng bào nơi cao nguyên
này.Chiều ở đây mặt trời xuống muộn hơn, không khí thật mát mẻ, dễ chịu đêm đầu
tiên trải nghiệm trên Đồng Văn, ngắm nền trời đầy sao lấp lánh lòng tôi lâng
lâng một cảm xúc khó tả. Thật vui khi được vào bếp cùng với mẹ anh Và làm món
mèn mén, đó là món ăn đặc trưng của người Mông, được tự tay chế biến và đồ ngô
cái cảm giác ấy thật khó quên, mùi ngô nồng nồng, ngai ngái, vị ngô đậm và ngọt
tuy hơi khô và khó nuốt với ai chưa quen nhưng ăn kèm với canh rau bí thì cảm
giác thật khó quên. Tôi được anh Và dạy nấu thắng cố là món ăn rất độc đáo và
cũng dễ làm từ các phần ngũ tạng của ngựa hay trâu, bò. Bí quyết của món thắng
cố là cách tra gia vị sao cho mọi thức đều đủ và vừa độ, được thưởng thức mùi
vị của món thắng cố cùng rượu ngô giữa không gian thiên nhiên khoáng đãng của
mảnh đất địa đầu tổ quốc, lòng người bỗng thấy có gì đó vừa thiêng liêng, vừa
thân thiết, nó như đã gắn bó ta với miền quê này tự lúc nào. Những cơn gió nhẹ
lướt qua, khẽ lay những thân ngô ngoài khe cửa, thi thoảng những làn gió nhẹ
luồn qua song cửa khẽ mơn man những khuôn mặt đã ngây ngất hơi men.
Sau một đêm dài trên Cao Nguyên đá, tiếng
gà rừng trên nương xen lẫn tiếng gà nhà eo óc gáy gọi bình minh, sương mù vẫn
bao bọc trên các sườn núi, những giọt sương đọng trên cây đang khẽ khàng rơi
xuống qua những kẽ lá để rồi những giọt nước đó góp phần làm cho đất đai vùng
cao nguyên này bớt đi sự khô cằn, không khí buổi sáng nơi đây thật trong lành
và thanh bình. Những con đường đằng đẵng phía xa vẫn mịt mù một màu sương trắng
bao phủ, thấp thoáng đây đó đã có những đồng bào người Mông xuống chợ với những
chiếc xe máy chở đầy những hàng hóa, nào là ngô, là rượu, là gà, là lợn…có
nhiều người gùi những bao ngô lớn vượt qua những mỏn đá tai mèo trong hơi sương mịt mờ xuống chợ.
Ấn
tượng nhất với tôi là chuyến hành trình ngược lên cột cờ Lũng Cú. Chặng đường
vẫn còn dài ở phía trước, qua Lũng Phìn, rồi trung tâm huyện Mèo Vạc, lên trên
đỉnh đèo Mã Pì Lèng. Khu nhà lưu niệm, là nơi tạm dừng chân nghỉ ngơi dành cho
du khách. Tại đây khách có thể ngắm cảnh thiên nhiên hùng vĩ với vực sâu thăm
thẳm và núi đá dựng đứng như lũy, như thành. Tựa lưng vào vách núi treo leo
chúng tôi phóng tầm mắt ngắm nhìn dòng sông Nho Quế. Dưới vực sâu tiếng nước đổ
ào ào qua các ghềnh đá, sương mù bốc lên mờ mịt theo vách đá dựng đứng trông
đến ghê người. Ngang tầm mắt chúng tôi là dải đèo Mã Pì Lèng con đường uốn lượn
giữa trập trùng núi, lúc ẩn, lúc hiện trong màn sương sớm của núi rừng. Cảnh
sắc thiên nhiên vừa hoang vu, vừa hùng vĩ ! Chính nơi đây tấm bia lưu niệm được
dựng lên để đánh dấu ngày hoàn thành: “Con đường hạnh phúc”! Con đường vượt qua
bao đèo, bao núi này được khởi công từ năm 1959 đến năm 1964, sinh thời Bác Hồ
đã thể theo nguyện vọng của đồng bào các dân tộc Hà Giang quyết định mở con
đường này để giúp đồng bào giao lưu, thông thương với miền xuôi. Những cựu
thanh niên xung phong năm xưa khi làm đường qua Mã Pì Lèng họ đã phải đu mình
trên những vách đá treo leo để khoan đá, nổ mìn trải 11 mùa trăng – Anh
Và kể cho chúng tôi nghe thêm về câu chuyện của những thanh niên làm đường ngày
ấy với giọng đầy xúc động và biết ơn! Có
chàng trai người Mông hăng hái tham gia mở đường, khi ấy ông là Bí thư đoàn
thanh niên của công trường sau này ông đã được bầu làm Bí thư Huyện ủy Mèo Vạc,
rồi Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tuyên sau đó là Chủ tịch UBMTTQ tỉnh Hà Giang.
Ông chính là Sùng Đại Dùng một trong số ít người hiểu rất rõ về lịch sử mở con
đường Hạnh phúc này! Có điều rất buồn cho đoàn chúng tôi đã không kịp được gặp
ông, bởi ông vừa mất tháng 2 năm 2014
trước mấy tháng khi chúng tôi có chuyến đi này.Vượt qua con đèo lịch sử, gặp
những công trình “hồ treo” trên núi đó là những món quà đặc biệt mà Nhà nước
xây dựng hỗ trợ đồng bào các dân tộc nơi đây cải thiện về nguồn nước sinh hoạt
trong mùa khô.
Trên chặng đường đến với phố cổ Đồng Văn,
cái phố mà tôi đã được thấy nhiều lần trên tivi, nhưng lúc này được bước chân
dạo bộ qua các dãy nhà, khu chợ, được tận mắt ngắm nhìn cảnh vật và những con
người nơi đây lòng tôi bỗng nao nao một cảm xúc khó tả lên lời! Ngồi trên tầng
hai ngôi nhà cổ của dòng họ Lương thưởng thức cà phê, cái cảm giác đăng đắng
của cà phê, xen lẫn vị ngậy của sữa, mới thấy hết cái công lao to lớn của những
con người khai mở đường lên Đồng Văn năm nào! Phố cổ Đồng Văn là khu di tích
quốc gia đã được xếp hạng. Điểm nổi bật của khu di tích này là dãy chợ và khu
phố cổ với gần 40 ngôi nhà. Cổ nhất phải kể đến là ngôi nhà của dòng họ Lương
mà chúng tôi đang có mặt được xây dựng khoảng năm 1890. Kiến trúc khu phố cổ
đồng văn là kết quả của sự giao thoa giữa lối kiến trúc bản địa với dân vùng
Vân Nam – Trung Quốc. Có thể nói khu phố cổ Đồng Văn là một quần thể kiến trúc
rất độc đáo và phù hợp với phong thủy vùng đất này! Ôi! Đồng Văn! Ôi! Hà Giang
của ta! Rời Đồng Văn chúng tôi tiếp tục ngược lên cột cờ Lũng Cú.Tôi nghe kể
năm mươi năm trước nơi đây đã từng in dấu chân nhà văn lớn Nguyễn Tuân, đó là
một con người năng đi để tìm tòi khám phá những vùng đất còn hoang vu của tổ
quốc. Âm vang đâu đó tôi còn như nghe thấy tiếng ngựa phi, tiếng gió hú vang
dội núi rừng…tất cả những trang viết trong bộ tiểu thuyết: “Đồng bạc trắng hoa
xòe”của nhà văn Ma Văn Kháng như đang sống dậy, hiển hiện trước mắt tôi… những thổ
ty: Hoàng Văn Chao, Nông Vĩnh Yêng như
đang sống lại …họ như ẩn hiện đâu đó giữa cao nguyên mênh mông một thời vang
bóng này…Lòng tôi thầm khâm phục và biết ơn với những trang viết đầy tính chân
thực và giàu sức gợi của nhà văn Ma Văn Kháng, điều này càng làm cho du khách
thêm yêu, thêm quý mảnh đất vùng biên cương đầy bí hiểm mà không kém phần hấp
dẫn này. Quả thật nếu không một lần lên đây thì khó có thể hình dung ra mảnh
đất và con người miền biên ải này? Con đường lên xã Ma Lé ngày càng dốc và càng
khó đi hơn, nhưng con đường giờ đã được trải nhựa, tôi hình dung ra con đường
đèo dốc 50 năm trước càng thêm cảm phục tinh thần và nghị lực của cụ Nguyên Tuân
ngày ấy.
Chiếc xe INOVA gầm gừ sau mấy giờ leo đèo,
vượt dốc, rồi cũng đưa được chúng tôi tới chân cột cờ Lũng Cú, lúc này đã là
buổi trưa, khi đến đồn biên phòng chúng tôi chứng kiến cảnh các chiến sĩ đang
phơi những lá cờ Tổ quốc nền đỏ sao vàng – Những lá cờ đã bạc màu bởi bao ngày
phơi mình trong nắng gió cùng đất trời nơi địa đầu Tổ quốc, giống như một người lính
đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vẻ vang của mình, lá cờ cũ được hạ xuống để
thay vào đó một lá cờ mới. Lá cờ cũ được cán bộ, chiến sỹ đồn biên phòng nơi
đây, giặt, phơi gấp lại kỹ càng, giờ thì nó trở thành một món quà thiêng liêng,
dành tặng cho các đơn vị, địa phương trên toàn quốc gìn giữ như một kỷ vật vô
giá. Từ chỗ để xe du khách phải leo bộ hơn hai trăm bảy mươi lăm bậc bê tông để
lên cột cờ. Dưới chân cột cờ là nơi dừng nghỉ chân cho du khách, trước khi leo
tiếp lên trên. 8 bức phù điêu làm bằng
đá được chạm khắc theo hình hoa văn trên mặt trống đồng, thể hiện lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữa nước của ông cha ta qua các thời kỳ.Vượt lên hơn một
trăm ba mươi bậc vòng xuyến nữa du khách mới thực sự được đặt chân lên đỉnh cột
cờ, ai đã từng một lần lên đây hẳn sẽ không quên được cái cảm giác vừa rất đỗi
thiêng liêng, vừa rất đỗi tự hào… Trước mắt tôi lá cờ Tổ quốc, nền đỏ sao
vàng rộng 54m2 tượng trưng
cho 54 dân tộc anh em đang phần phật tung bay giữa một không gian đại ngàn bao
la, hùng vĩ, lòng tôi khi đó bỗng rưng rưng một niềm cảm xúc, xúc động đến vô
ngần! Ý thức về chủ quyền dân tộc, về tình yêu tổ quốc trỗi dậy, tuôn trào
trong huyết quản mỗi người dân nước Việt khi được đặt chân đến nơi đây.Từ đây
nhìn xuống phía dưới là hai hồ nước to trông tựa như hai mắt rồng lóng lánh, mé
dưới là cánh đồng lúa vừa bén rễ. Với độ cao 38,5 mét cột cờ được xây dựng vững
chắc tọa lạc trên núi cao, từ đây có thể bao quát các bản làng trong xã và nước
bạn bên kia biên giới, các khu nhà trình tường được dựng san sát gần nhau, các
nương ngô xanh mướt, những mỏn đá tai mèo nhọn hoắt tựa như gươm, như giáo…tất
cả đang hiển hiện trước mắt du khách.
Tạm biệt cột cờ Lũng cú! Tạm biệt những
chiến sĩ biên phòng đang ngày đêm gìn giữ miền biên cương tổ quốc, chúng tôi
lại lên đường đến thăm dinh của vị Vua Mèo Vương Chí Sình, xe chúng tôi đi qua
cột mốc 419 cách đường quốc lộ không đầy 100 mét, lần đầu tiên được đứng bên
cột mốc chủ quyền, nơi ranh giới giữa hai nước Việt – Trung, chỉ một bước chân
là sang bên nước bạn. Giữa trưa dưới cái nắng nóng gay gắt của núi rừng đông
bắc, đứng bên cột mốc chủ quyền mà lòng se sắt nhớ tới những chiến sĩ đã hy
sinh để bảo vệ cột mốc này mùa xuân năm 1979, ta càng thấm thía hơn về giá trị
của sự độc lập, tự do cho một dân tộc là lớn lao đến thế nào, nó đã phải đổi
bằng cả máu, xương của bao thế hệ đồng bào.
Rời cột mốc 419 chúng tôi đến với Dinh nhà
họ Vương. Khu dinh thự được thiết kế và xây dựng nằm gọn trên một ngọn đồi hình
mu rùa với nhiều đất đai thuận lợi cho việc canh tác và sản xuất, xung quanh
bao bọc bởi đường đi, trước cổng là hàng thông cổ thụ được trồng từ khi nào
chẳng rõ, vượt qua những bậc thang đá lên đến trước cổng, cổng được xây bằng đá
có cửa làm bằng gỗ, vào sâu trong khuôn viên trước cửa nhà là hai câu đối được
viết bằng chữ Hán, khu biệt thự được xây dựng kết hợp hài hòa theo 3 lối kiến
trúc của người Pháp, người Hoa và người Mông, thể hiện qua ống khói lò sưởi của
Pháp, hoa văn ngói âm dương của người
Hoa, nhà trình tường vững chãi của người Mông… khu biệt thự có 3 ngôi nhà sàn
lớn. Ngôi giữa là nơi ở của vua, mặt quay ra phía thành, tại đây còn lưu giữ
bức hoành phi lớn với bốn chữ : “Biên chinh khả phong” (Trấn ải biên cương) do
vua Khải Định ban phong. Hai ngôi nhà kia song song với nhau và vuông góc với
ngôi nhà chính là nơi ở của những người phục vụ và quân lính. Cả ba ngôi nhà
đều được làm bằng gỗ quý. Khu dinh thự được thiết kế bao gồm các phòng ngủ,
phòng làm việc cũng như các kho tàng tất
cả được bố trí rất khoa học theo thuyết phong thủy của người Á đông. Hiện khu
dinh thự này được coi là: “Viên ngọc xanh của vùng công viên địa chất toàn cầu”
! Có lẽ ấn tượng nhất với du khách đó là phòng đánh bạc, kho cất thuốc phiện và
hệ thống lô cốt cố thủ rất vững chãi được thiết kế rất khoa học trong dinh thự
họ Vương. Cô hướng dẫn viên giới thiệu cho du khách biết số tiền dùng để mua
vật liệu xây khu dinh thự này là 1,5 triệu đồng bạc trắng hòa xòe, theo thời
giá hiện nay ước khoảng 150 tỷ đồng, chưa tính tiền công xây dựng! Có tận mắt
nhìn ngắm ta mới phần nào hiểu được sự công phu của họ Vương ngày đó. Cũng bởi
lẽ đó mà công trình này đã bền bỉ “thi gan cùng tuế nguyệt” hàng trăm năm, dấu
vết thời gian chỉ như những vết bụi mờ, phủ lên khu dinh thự khiến nó càng trở
nên cổ kính và trầm mặc hơn mà thôi! Trong khuôn viên rộng lớn còn có những cây
đào, cây lê vào thời điểm này quả mới to hơn quả sấu một chút. Sự hiện diện của
chúng nơi đây như một minh chứng sống động về sức sống bền bỉ và sự gắn bó giữa
chúng với con người trên vùng đất đầy khắc nghiệt này. Bên trái cổng, cách vài chục bước chân là nơi yên nghỉ
của Vương Chí Sình hay còn gọi là (Vương Chí Thành ) nghe theo lời của Chủ Tịch
Hồ Chí Minh, ông đã theo cách mạng đưa đồng bào người Mông nơi đây bước sang một trang
sử mới, trên bia mộ có hai thanh kiếm được khắc trên đá và hai câu thơ Bác Hồ dành tặng cho ông. Cách đó không xa là ngôi mộ của ông Vương Quỳnh Sơn là cháu dòng
dõi họ Vương, Ông nguyên là Chuyên viên cao cấp của Ủy ban dân tộc Trung ương,
ông mất tại Hà Nội năm 2008 nhưng theo nguyện vọng của ông và gia đình, thi hài
ông được đưa về đây an táng dưới những gốc thông cổ thụ mà thuở thiếu thời ông
đã cùng chúng bạn chơi đùa.
Tạm biệt dinh họ Vương với nhiều câu chuyện giàu
chất huyền thoại mà chúng ta mới chỉ được biết phần nào. Trên con đường trở về
Sủng Trái bất chợt chúng tôi gặp một trận mưa, theo anh Giàng Mí Và cho hay những
cơn mưa như thế thật đáng quí với vùng đất khô khát này, dù cơn mưa to nhưng
không thấm thía gì so với vùng núi đá đang khát lâu nay! Những hạt mưa rơi và
thấm nhanh xuống đất, cũng kịp tưới cho những nương ngô đang kỳ trổ bắp thoát
khỏi cơn khát bao ngày qua. Vượt gần 40 km về đến thôn Sủng Trái A, thuộc xã
Sủng Trái, anh Và đưa chúng tôi đi thăm một số gia đình trong thôn, trong số 7
gia đình chúng tôi đến thăm chỉ có 9 người biết tiếng phổ thông, mặc dù thôn
nằm ở ngay cạnh đường liên huyện từ thành phố Hà Giang đi qua Quản Bạ, Yên
Minh, Đồng Văn.Trò chuyện với anh Giàng Mí Tủa 25 tuổi, mới thấu hiểu cuộc sống
của đồng bào trên miền biên ải này còn lắm khó khăn, một năm gia đình anh trồng một vụ ngô với
3kg ngô giống, khi thu hoạch năm nào được mùa, thu được khoảng 1 tấn ngô vậy mà
vẫn không đủ ăn cho cả gia đình gần chục nhân khẩu, nên anh đã đi làm phụ hồ
với tiền công 80 nghìn đồng một ngày công để tăng thêm thu nhập cho gia đình,
anh Tủa cũng cho biết Nhà nước đã có nhiều chính sách cho người dân nơi đây như
hỗ trợ vật liệu làm nhà, hỗ trợ tiền mua ngô giống, học sinh đến trường được hỗ
trợ học phí, hỗ trợ tiền và gạo ăn hàng tháng. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước người dân
nơi đây cũng đã chủ động bảo nhau tự xây bể để chứa nước mưa phục vụ cho sinh
hoạt hằng ngày trong mùa khô. Nhờ đó mà nông thôn vùng Sủng Trái những năm gần
đây đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Với Chuyến đi thực tế được tai nghe, mắt
thấy, được xem Giàng Mí Và thổi khèn
Mông và được nghe Giàng Mí Tủa hát bài: ‘‘Hà Giang hương quê tôi” của Nhạc sĩ
Thanh Phúc mới biết họ yêu và gắn bó biết bao nhiêu với miền quê này. Cao
nguyên đá miền đất địa linh tuy còn hoang sơ mà ẩn chứa trong đó bao câu chuyện
huyền bí, tôi tin nếu ai đã đến đây một lần thì không thể nào quên, nơi ấy có
những con người ngày đêm kiên cường bám trụ trên những miền núi cao, họ trồng
ngô, bí, đậu tương, cây lanh và giờ đây còn trồng cả cây cỏ voi để chăn nuôi
trâu bò, dê, ngựa… họ cũng chính là những người chung tay gìn giữ miền biên cương
là phên dậu phía bắc của Tổ quốc! Ôi cháy mãi trong ta khúc hát về Hà Giang yêu
thương !
Tháng
9/6/2014
Triệu Văn Trọng
No comments:
Post a Comment