Search This Blog

Monday, April 18, 2016

TRANH TỐ NỮ Ý  TƯỞNG NGƯỜI XƯA

           Cuối tháng 2 vừa qua tôi có dịp về Hà Nội ăn cưới người cháu ruột, thấy tôi cũng có chút ít say mê nghệ thuật, sau lễ cưới, người cháu gọi tôi là cậu hiện đang công tác tại: Phân viện phát triển văn hóa dân tộc thuộc Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh mời tôi ở lại chơi với gợi ý sẽ đưa cậu đi xem bộ tranh Hàng Trống của một người bạn. Thực tình hội họa tôi rất thích, nhất là các loại tranh dân gian như Đông Hồ, Hàng Trống…thì đã quá quen thuộc vì tôi cũng có được vài ba bộ, phần được bạn bè tặng, phần tôi tự tìm mua lưu giữ để tự thưởng thức. Thích tranh và mê tranh là thế nhưng hiểu về chúng thì lại không nhiều. Được thằng cháu mời, biết đây là cơ hội hiếm có để mình thưởng ngoạn, nâng cao nhận thức cho bản thân về hội họa. Vậy là tôi nhận lời ở lại. Cứ tưởng cháu tôi sẽ đưa tôi đến nơi các nghệ nhân làm tranh, nhưng không, chiều hôm ấy người cháu đưa tôi đến một người bạn ở phố Hàng Bồ.
       Ngôi nhà cổ của ông Tào Mậu Ân nằm trên con phố Hàng Bồ xưa cũ, không gian căn phòng khách khá rộng rãi. Mọi đồ vật trong gian phòng khách đều mang dáng dấp cổ kính, từ bộ bàn ghế gỗ mun đen bóng có khảm xà cừ, đến bộ hoành phi và câu đối treo trước bàn thờ đều toát lên vẻ uy nghi, sang trọng. Thì ra đây là một gia đình người Hoa. Đối diện với bàn tiếp khách trên tường có treo bộ tranh “Tố nữ” (bốn cô gái), thoáng trông đã biết đó là tranh Hàng Trống chính hiệu. Sau khi nghe cháu tôi giới thiệu về tôi, và mục đích chuyến ghé thăm của chúng tôi, ông Tào Mậu Ân tỏ ra rất vui. Ông nhanh nhảu pha trà mời chúng tôi rồi bảo:
-         Nói về tranh Hàng Trống thì tôi có thể nói cho anh nghe cả buổi được.
      Ông Tào Mậu Ân năm nay đã 76 tuổi, ông nói trước đây ông làm ở sở văn hóa chuyên về ngành bảo tàng, bảo tồn, nên cũng có ít nhiều hiểu biết về hội họa.Vậy rồi ông bắt đầu kể cho tôi nghe sơ lược về các thể đề tài của tranh Hàng Trống, theo ông tranh Hàng Trống cũng có những đề tài tương tự như tranh Đông Hồ đó là các loại: Tranh Thờ: Loại tranh này phục vụ cho nhu cầu thờ cúng trong các điện, miếu, gia đình. Do yêu cầu ấy, tranh thờ mang màu sắc tôn giáo, hình tượng được thể hiện là con người và vật tuy gần gũi mà vẫn rất thần bí. Đáp ứng ước vọng của tầng lớp trên và thị dân, có loại tranh “Phúc, Lộc, Thọ” (Tam Đa), cầu đông con cháu để nối dõi như: “Thất đồng”, “Tôn tử vạn đại” ...Tranh sinh hoạt và thiên nhiên như: “Chợ quê”, “Canh nông chi đồ”, “Chim công”, “Lý ngư vọng nguyệt”, “Tứ quý”, “Tố nữ”…Tranh truyện và tranh vui như: “Chuột vinh quy”, “Thầy đồ cóc”, “Truyện Kiều”, “Phạm Công Cúc Hoa” tất cả đều được in trên nền giấy xuyến chỉ hoặc giấy dó…Nhìn chung đề tài rất đa dạng và phong phú, đáp ứng được nhu cầu về thị hiếu của người chơi tranh.
    Ngắm nhìn bộ tranh Tố nữ, tôi thấy phía trên mỗi bức tranh đều có in bốn dòng chữ Hán, tôi đoán rằng đó là những bài thơ tứ tuyệt, nhưng không hiểu nó nói gì, biết đây chính là cơ hội để tìm hiểu sâu về ý nghĩa và nội dung của bộ tranh tôi liền đề nghị:
-         Bác có thể dịch nghĩa những dòng chữ Hán được không ạ?
      Ông Ân nhìn tôi cười và bảo:
-         Dĩ nhiên là được.
Vậy rồi ông đọc cho tôi chép lại toàn bộ 4 bài thơ đề trên bốn bức tranh cả bằng phiên âm Hán Việt và dịch thơ. Nói người xưa quá cao siêu quả không có gì là quá, lời thơ ý nhị góp phần tôn vinh vẻ đẹp của tranh. “Thi trung hữu họa” có lẽ quả không sai chúng luôn hòa quyện vào nhau, tôn vinh lẫn nhau tạo nên vẻ đẹp huyền ảo và cũng đầy huyền bí nó huyễn hoặc người xem đến mê hồn.
     Khác với các bộ tranh tứ bình cổ thường vẽ về hoa lá bốn mùa hoặc các con vật thì duy nhất bộ tranh “Tố nữ” vẽ về người, đó là bốn cô gái mặc áo dài với bốn tư thế khác nhau, trên tay cầm những đạo cụ khác nhau với những sắc áo khác nhau và nhìn kỹ ta cũng dễ nhận thấy mỗi cô gái cũng có sự cao thấp khác nhau. Mấu chốt chính mà đề tài bộ tranh muốn thể hiện là đây. Nghệ nhân dân gian đã tạo được vẻ đẹp mượt mà, thanh cao của các tố nữ, vừa sinh động, vừa duyên dáng. Các nàng đều mắt phượng, mày ngài, tóc bỏ đuôi gà, một vẻ đẹp tiêu chuẩn của thiếu nữ thời đó. Đây cũng chính là bức tranh độc đáo về mô tả thanh âm, bởi lẽ người ngắm tranh có thể như nghe được tiếng nhạc vang lên qua từng chuyển động của các cô gái, đó là ý tứ sâu xa của người xưa.
Có thể nói bộ tranh “Tố nữ”là những bức tranh vẽ theo lối siêu thực, và diễn tả được vẻ đẹp của âm thanh và trở thành bộ tranh hoàn chỉnh về ý tưởng và bố cục của ông cha ta xưa để lại. Các nghệ nhân cho rằng cái hay của tranh Tố nữ là ở chỗ: “Ngắm tranh mà như nghe thấy cả lời ca, tiếng nhạc. Qua hình mà thấy nhạc du dương. Thưởng dáng mà thấy hồn người phảng phất. Khiến người xem ngây ngất, lãng du!”
Cũng theo lời phân tích của ông Tào Mậu Ân thì chỉ bộ tranh “Tố nữ ”Hàng Trống là có lối vẽ và cách tô màu riêng biệt. Bốn cô gái đang hòa tấu trong tư thế hài hòa, duyên dáng. Cô đánh đàn cao nhất sau đến cô thổi sáo thứ đến cô cầm sênh và cô cầm quạt. Các nghệ nhân dân gian xưa vẽ có hàm ý lấy chiều cao của các cô gái để nói lên sự chênh lệch về âm thanh của từng nhạc cụ. Cụ thể là trong bốn đạo cụ này, thì tiếng đàn cho âm sắc cao nhất, rồi đến tiếng sáo, thứ đến tiếng lách cách của sênh và nhẹ nhất là tiếng phất gió của quạt. Đây là điểm mấu chốt của lối vẽ tranh mượn hình gửi ý. Các nghệ nhân đã lấy chiều cao số học biểu lộ cung bậc cao, thấp của âm thanh để ca ngợi vẻ đẹp âm thanh của các đạo cụ. Đây quả là một cách thể hiện vô cùng tinh tế của các nghệ nhân xưa.
   Trước đây người ta tưởng bức tranh chỉ nhằm giới thiệu vẻ đẹp tố nữ với vẻ đẹp mượt mà thanh cao của mỗi nàng, vừa sinh động, vừa duyên dáng. Nghệ nhân chỉ mượn các đạo cụ biểu diễn để tạo dáng cho các nàng thêm sinh động, nhưng không hẳn thế. “Tố nữ” thực sự là bức tranh siêu thực, vẻ đẹp không nằm ở chỗ tả người. Ý tưởng của nghệ nhân làm tranh tứ bình “Tố nữ” nằm ở điểm sâu sắc đó. Trong họa không chỉ có thơ mà còn có cả nhạc nữa.
       Tôi thật bất ngờ và thật thú vị về cuộc gặp gỡ này, qua đó tôi đã phần nào cảm nhận được vẻ đẹp của bộ tranh cùng những ý tứ của người xưa!
    Xin chép lại bốn bài thơ dịch mà tôi chép được từ ông Tào Mậu Ân để độc giả cùng chiêm nghiệm, thưởng thức! Cũng theo ôngTào Mậu Ân cho biết đó là cách dịch phổ biến của mọi người mà ông thuộc và ghi chép lại:
CÔ THỔI SÁO
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ màng
Theo gió xuân vào khắp Lạc – Dương
Văng vẳng đêm nay bài “Chiết Liễu”
Ai người không chạnh nỗi tha hương
CÔ CẦM QUẠT
Thẻ hồng dồn phách én bay phăng
Lững thững guồng mây đến họa đường
Múa hết, rèm cao đưa khóc hạnh
Chng ai hay đó S Tương Vương
CÔ CM XÊNH
Môi son va hé n anh đào
Răng ngc hai hàng nh điu cao
Trước gió nghìn cành hoa nhún nhy
Gót sen ln nhp đến Dương – châu

CÔ GY ĐÀN
Trước song ngi ngm nguyt đu canh
Ôm chiếc cm trăng do khúc tình
Đàn t huy âm vi nhã thú
Ch tương ngc lut t âm thanh
                                                                                                                Bùi Nhật Lai


                                                                             

No comments:

Post a Comment