TRANH TỐ NỮ Ý TƯỞNG NGƯỜI XƯA
Cuối
tháng 2 vừa qua tôi có dịp về Hà Nội ăn cưới người cháu ruột, thấy tôi cũng có
chút ít say mê nghệ thuật, sau lễ cưới, người cháu gọi tôi là cậu hiện đang
công tác tại: Phân viện phát triển văn hóa dân tộc thuộc Học viện chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh mời tôi ở lại chơi với gợi ý sẽ đưa cậu đi xem bộ tranh Hàng Trống
của một người bạn. Thực tình hội họa tôi rất thích, nhất là các loại tranh dân
gian như Đông Hồ, Hàng Trống…thì đã quá quen thuộc vì tôi cũng có được vài ba bộ,
phần được bạn bè tặng, phần tôi tự tìm mua lưu giữ để tự thưởng thức. Thích
tranh và mê tranh là thế nhưng hiểu về chúng thì lại không nhiều. Được thằng
cháu mời, biết đây là cơ hội hiếm có để mình thưởng ngoạn, nâng cao nhận thức
cho bản thân về hội họa. Vậy là tôi nhận lời ở lại. Cứ tưởng cháu tôi sẽ đưa
tôi đến nơi các nghệ nhân làm tranh, nhưng không, chiều hôm ấy người cháu đưa
tôi đến một người bạn ở phố Hàng Bồ.
Ngôi
nhà cổ của ông Tào Mậu Ân nằm trên con phố Hàng Bồ xưa cũ, không gian căn phòng
khách khá rộng rãi. Mọi đồ vật trong gian phòng khách đều mang dáng dấp cổ
kính, từ bộ bàn ghế gỗ mun đen bóng có khảm xà cừ, đến bộ hoành phi và câu đối
treo trước bàn thờ đều toát lên vẻ uy nghi, sang trọng. Thì ra đây là một gia
đình người Hoa. Đối diện với bàn tiếp khách trên tường có treo bộ tranh “Tố nữ”
(bốn cô gái), thoáng trông đã biết đó là tranh Hàng Trống chính hiệu. Sau khi
nghe cháu tôi giới thiệu về tôi, và mục đích chuyến ghé thăm của chúng tôi, ông
Tào Mậu Ân tỏ ra rất vui. Ông nhanh nhảu pha trà mời chúng tôi rồi bảo:
-
Nói về tranh Hàng Trống thì tôi có thể nói cho
anh nghe cả buổi được.
Ông Tào
Mậu Ân năm nay đã 76 tuổi, ông nói trước đây ông làm ở sở văn hóa chuyên về
ngành bảo tàng, bảo tồn, nên cũng có ít nhiều hiểu biết về hội họa.Vậy rồi ông
bắt đầu kể cho tôi nghe sơ lược về các thể đề tài của tranh Hàng Trống, theo
ông tranh Hàng Trống cũng có những đề tài tương tự như tranh Đông Hồ đó là các
loại: Tranh Thờ: Loại tranh này phục vụ cho nhu cầu
thờ cúng trong các điện, miếu, gia đình. Do yêu cầu ấy, tranh thờ mang màu sắc
tôn giáo, hình tượng được thể hiện là con người và vật tuy gần gũi mà vẫn rất
thần bí. Đáp ứng ước vọng của tầng lớp trên và thị dân, có loại tranh “Phúc, Lộc,
Thọ” (Tam Đa), cầu đông con cháu để nối dõi như: “Thất đồng”, “Tôn tử vạn đại” ...Tranh
sinh hoạt và thiên nhiên như: “Chợ quê”, “Canh nông chi đồ”, “Chim công”, “Lý
ngư vọng nguyệt”, “Tứ quý”, “Tố nữ”…Tranh truyện và tranh vui như: “Chuột vinh
quy”, “Thầy đồ cóc”, “Truyện Kiều”, “Phạm Công Cúc Hoa” tất cả đều được in trên
nền giấy xuyến chỉ hoặc giấy dó…Nhìn chung đề tài rất đa dạng và phong phú, đáp
ứng được nhu cầu về thị hiếu của người chơi tranh.
Ngắm nhìn bộ tranh Tố nữ, tôi thấy phía
trên mỗi bức tranh đều có in bốn dòng chữ Hán, tôi đoán rằng đó là những bài
thơ tứ tuyệt, nhưng không hiểu nó nói gì, biết đây chính là cơ hội để tìm hiểu
sâu về ý nghĩa và nội dung của bộ tranh tôi liền đề nghị:
-
Bác có
thể dịch nghĩa những dòng chữ Hán được không ạ?
Ông Ân nhìn tôi cười và bảo:
-
Dĩ nhiên
là được.
Vậy rồi ông đọc cho tôi chép lại toàn bộ 4 bài
thơ đề trên bốn bức tranh cả bằng phiên âm Hán Việt và dịch thơ. Nói người xưa
quá cao siêu quả không có gì là quá, lời thơ ý nhị góp phần tôn vinh vẻ đẹp của
tranh. “Thi trung hữu họa” có lẽ quả không sai chúng luôn hòa quyện vào nhau,
tôn vinh lẫn nhau tạo nên vẻ đẹp huyền ảo và cũng đầy huyền bí nó huyễn hoặc
người xem đến mê hồn.
Khác với các bộ tranh tứ bình cổ thường vẽ
về hoa lá bốn mùa hoặc các con vật thì duy nhất bộ tranh “Tố nữ” vẽ về người,
đó là bốn cô gái mặc áo dài với bốn tư thế khác nhau, trên tay cầm những đạo cụ
khác nhau với những sắc áo khác nhau và nhìn kỹ ta cũng dễ nhận thấy mỗi cô gái
cũng có sự cao thấp khác nhau. Mấu chốt chính mà đề tài bộ tranh muốn thể hiện
là đây. Nghệ nhân dân gian đã tạo được vẻ đẹp mượt mà, thanh cao của các tố nữ,
vừa sinh động, vừa duyên dáng. Các nàng đều mắt phượng, mày ngài, tóc bỏ đuôi
gà, một vẻ đẹp tiêu chuẩn của thiếu nữ thời đó. Đây cũng chính là bức tranh độc
đáo về mô tả thanh âm, bởi lẽ người ngắm tranh có thể như nghe được tiếng nhạc vang
lên qua từng chuyển động của các cô gái, đó là ý tứ sâu xa của người xưa.
Có thể nói bộ tranh “Tố nữ”là những bức tranh vẽ
theo lối siêu thực, và diễn tả được vẻ đẹp của âm thanh và trở thành bộ tranh
hoàn chỉnh về ý tưởng và bố cục của ông cha ta xưa để lại. Các nghệ nhân cho rằng
cái hay của tranh Tố nữ là ở chỗ: “Ngắm tranh mà như nghe thấy cả lời ca, tiếng
nhạc. Qua hình mà thấy nhạc du dương. Thưởng dáng mà thấy hồn người phảng phất.
Khiến người xem ngây ngất, lãng du!”
Cũng theo lời phân tích của ông Tào Mậu Ân thì
chỉ bộ tranh “Tố nữ ”Hàng Trống là có lối vẽ và cách tô màu riêng biệt. Bốn cô
gái đang hòa tấu trong tư thế hài hòa, duyên dáng. Cô đánh đàn cao nhất sau đến
cô thổi sáo thứ đến cô cầm sênh và cô cầm quạt. Các nghệ nhân dân gian xưa vẽ
có hàm ý lấy chiều cao của các cô gái để nói lên sự chênh lệch về âm thanh của
từng nhạc cụ. Cụ thể là trong bốn đạo cụ này, thì tiếng đàn cho âm sắc cao nhất,
rồi đến tiếng sáo, thứ đến tiếng lách cách của sênh và nhẹ nhất là tiếng phất
gió của quạt. Đây là điểm mấu chốt của lối vẽ tranh mượn hình gửi ý. Các nghệ
nhân đã lấy chiều cao số học biểu lộ cung bậc cao, thấp của âm thanh để ca ngợi
vẻ đẹp âm thanh của các đạo cụ. Đây quả là một cách thể hiện vô
cùng tinh tế của các nghệ nhân xưa.
Trước đây người ta
tưởng bức tranh chỉ nhằm giới thiệu vẻ đẹp tố nữ với vẻ đẹp mượt mà thanh cao
của mỗi nàng, vừa sinh động, vừa duyên dáng. Nghệ nhân chỉ mượn các đạo cụ biểu
diễn để tạo dáng cho các nàng thêm sinh động, nhưng không hẳn thế. “Tố nữ” thực
sự là bức tranh siêu thực, vẻ đẹp không nằm ở chỗ tả người. Ý tưởng của nghệ nhân
làm tranh tứ bình “Tố nữ” nằm ở điểm sâu sắc đó. Trong họa không chỉ có thơ mà
còn có cả nhạc nữa.
Tôi thật bất
ngờ và thật thú vị về cuộc gặp gỡ này, qua đó tôi đã phần nào cảm nhận được vẻ
đẹp của bộ tranh cùng những ý tứ của người xưa!
Xin chép lại bốn
bài thơ dịch mà tôi chép được từ ông Tào Mậu Ân để độc giả cùng chiêm nghiệm,
thưởng thức! Cũng theo ôngTào Mậu Ân cho biết đó là cách dịch phổ biến của mọi
người mà ông thuộc và ghi chép lại:
CÔ THỔI SÁO
Nhà ai sáo ngọc tiếng mơ
màng
Theo gió xuân vào khắp
Lạc – Dương
Văng vẳng đêm nay bài
“Chiết Liễu”
Ai người không chạnh nỗi
tha hương
CÔ CẦM QUẠT
Thẻ hồng dồn phách én bay
phăng
Lững thững guồng mây đến
họa đường
Múa hết, rèm cao đưa khóc
hạnh
Chẳng ai hay đó Sở Tương Vương
CÔ CẦM XÊNH
Môi son
vừa hé nụ anh đào
Răng ngọc hai hàng nhả điệu cao
Trước gió nghìn cành
hoa nhún nhảy
Gót sen
lần nhịp đến Dương – châu
CÔ GẨY ĐÀN
Trước song ngồi ngắm nguyệt đầu canh
Ôm chiếc cầm trăng dạo khúc tình
Đàn tả huy âm vi nhã
thú
Chỉ tương ngọc luật tự âm thanh
Bùi Nhật Lai
No comments:
Post a Comment