Tân cử nhân - Những hệ lụy từ sự học hành
I .Mơ ước học để đổi đời.
Phải nói ngay rằng ít có nơi
nào trên thế giới mà người dân lại ham mê học tập như người dân Việt chúng ta.
Xét trong lịch sử, truyền thống hiếu học của dân tộc, ta vô cùng tự hào với tên
tuổi của những danh nhân đã từng vượt khó để học tập thành tài như: Nguyễn Hiền
mới 13 tuổi đã đỗ đầu khoa thi để rồi được phong trạng nguyên, hay như Mạc Đĩnh
Tri, thân hình nhỏ bé, xấu xí mà được phong lưỡng quốc trạng nguyên, khiến cho
vua Tàu phải tâm phục, khẩu phục trước tài trí của vị trạng nguyên Đại Việt
này. Hai ông đều xuất thân trong gia đình nông dân nghèo nhưng ham học, không
có tiền để mua dầu, hàng đêm phải bắt đom đóm cho vào trong vỏ trứng để làm đèn
học tập. Tiếp nối truyền thống học tập bao đời nay của dân tộc, ngày nay con cháu
chúng ta cũng lập rất nhiều kỳ tích trong học tập và các kỳ thi cử hằng năm, những
học sinh của ta không chỉ ghi danh trong nước mà các kỳ thi quốc tế cũng rất
nhiều em đoạt huy chương vàng, bạc mang vinh quang về cho tổ quốc. Đó là những
tấm gương học tập miệt mài, quên mọi khó khăn thiếu thốn của gia đình để tự
vươn lên khẳng định mình trong các kỳ thi. Có những em học sinh đi bộ hàng trăm
cây số để đến trường thi với mong ước sẽ đổi thay số phận của bản thân. Nhiều
sinh viên suốt những năm học Đại học luôn là sinh viên xuất sắc giành nhiều giải
thưởng cao quý…Bên cạnh sự thành công đó của các em luôn là sự đồng hành của những
ông bố, bà mẹ sớm hôm tảo tần, một nắng, hai sương lam làm chỉ với một nỗi khát
khao cháy bỏng mong con mình đỗ đạt, có công ăn việc làm, thay đổi cuộc sống,
thoát khỏi cái vòng nghèo đói. Họ sẵn sàng làm thuê, làm mướn, sống lang thang
nơi phố thị hay vất vưởng náu mình ngay trong cả những ống cống ven quốc lộ để
kiếm tiền nuôi con ăn học. Niềm khao khát đổi đời được truyền từ ông bà, cha mẹ
sang con cháu, các thế hệ cứ thế tiếp nối nhau học hành. Phải nói đó là những ước
mơ, hoài bão rất chính đáng của mỗi người dân trên mảnh đất hình chữ S vốn còn
rất nhiều khó khăn này. Em Triệu Thị T. là một người có hoàn cảnh khá đặc biệt,
em mồ côi cha khi mới hơn hai tuổi, T. học lên đến lớp 6 thì mẹ tái giá. Cuộc sống
lam lũ khiến em phải bươn trải ngay từ tấm bé. Sáng đi học, chiều về cùng mẹ
làm lụng tất cả mọi công việc gia đình, đồng áng như đi cấy, làm cỏ, trồng rau,
chăn lợn, nuôi gà… khi rảnh em đi hái chè thuê để lấy tiền ăn học. Thấy em chăm
học, lại ngoan hiền ai cũng khuyên em cố học hành để thay đổi cuộc sống. Khi
thi vào khoa Quản trị kinh doanh Đại học Thái Nguyên em đỗ với số điểm khá cao.Cả
khu xóm nghèo hân hoan mừng cho T. Điều này khích lệ em rất lớn và cả nhà đều
vui. Ai cũng khen và cho rằng em có nghị lực và tương lai hẳn sẽ tươi sáng. Còn
Hoàng Văn Sỹ xuất thân trong một gia đình thuần nông. Khi đang học lớp 12 thì mẹ
em bị bệnh nặng phải đi điều trị dài ngày tại bệnh viên Bạch Mai dưới Hà Nội,
bao nhiều tiền bạc bố em phải dồn hết lo chữa chạy cho mẹ hơn một năm trời. Một
mình ở nhà Sỹ vừa học, vừa phải chăm sóc hơn một mẫu ruộng và tự chăm lo cho bản
thân, mặc dù vậy kỳ thi Đại học năm ấy em đã thi đỗ vào khoa Sử Đại học sư phạm
Thái Nguyên với mức điểm 20/15. Em Nguyễn Thị H. lại có hoàn cảnh rất đặc biệt,
bố là một tử tù khi em chưa học hết cấp 2, em luôn bị ám ảnh bởi sự kỳ thị của
mọi người xung quanh, tuy không ai nói ra nhưng hầu như tất cả đều khinh bỉ, xa
lánh mẹ con em. Những năm tháng dài học tập của em là cả một nỗi đắng cay, tủi
cực mà có lẽ suốt cả cuộc đời em không thể nào quên. Cũng may do chính sách của nhà nước không có sự
kỳ thị đối với những đứa trẻ như em, cũng vì lẽ đó em âm thầm học tập và cũng
đã thi đỗ vào trường Đại học Khoa học tự nhiên Thái Nguyên mặc cho bao áp lực,
bao lời đố kỵ của mọi người xung quanh, em học với ước muốn thoát khỏi cuộc sống
thực tại của bản thân…Phải nói đó là kỳ tích của những đứa con nông dân vùng
quê tôi. Mỗi em một cuộc đời, một cảnh ngộ nhưng các em có chung một khát vọng
được học tập, tự mình vượt qua những khó khăn thử thách của bản thân và gia đình
về cả tinh thần lẫn vật chất để đạt được ước mơ của mình. Khát vọng thay đổi cuộc
sống luôn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy đối với các em và tất nhiên sự nỗ lực đó
của các em luôn được ông bà, cha mẹ hết lòng ủng hộ. Với mong ước các em sau
này sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
II. Niềm vui ngắn chẳng tày gang!
Ngày nhập học của em Triệu Thị
T. cũng là cú “sốc”lớn đối với gia đình em. Cầm giấy báo nhập học cùng tờ thông
báo kèm theo danh mục thống kê những khoản tiền phải đóng ngay một lần khi nhập
học với tổng số tiền lên tới 7.256.000 đồng làm cả nhà phát hoảng. Bố mẹ em phải
mất cả tuần lễ lo bán thóc, bán gà và chạy vay cô dì, chú bác khắp nơi mới đủ để
đưa em nhập trường. Vào học niềm vui và sự háo hức trước ngôi trường Đại học mà
khi ngồi trên ghế trường phổ thông T. đã từng mơ ước, em vui sướng vô cùng.
Nhưng chỉ sau vài bữa ăn tại những quán cơm bụi bên trường đã làm cho T. thấy bồn
chồn, bất an. Vài trăm bạc tiền ăn mẹ cho bay vèo vèo mà không có cách gì ngăn
lại. Hết tháng học đầu, T. về nhà kể mọi sự với bố mẹ… vậy là bố mẹ lại lo mua
sắm xoong nồi để T. tự nấu ăn. Tằn tiệm từng đồng để theo học. Bữa ăn căn bản
được T. khống chế đến mức tối giản nhất, ngoài gạo mang nhà đi, hàng tuần bố mẹ
gửi cho ít rau em cũng phải ăn dè, ngoài ra T. chỉ dám mua túi bột canh, và
chai nước mắm những loại rẻ tiền nhất để tồn tại. Vấn đề ăn như thế cơ bản đã ổn.
Nhưng lo nhất là tiền học phí, tiền thuê nhà và các loại quỹ lớp luôn có xu hướng
phát sinh và tăng thêm sau mỗi kỳ học. Mỗi lần gọi điện về nhà xin tiền, T. đều
nhận được những lời ca thán não nề của mẹ : “Cô tiêu pha gì mà như phá thế,
tháng trước vừa đưa 500 thế mà giờ lại đã đòi rồi, tao biết đào đâu ra mấy triệu
bây giờ?!”…Nghe những lời đó ruột gan T. như quặn thắt, T. thương mẹ và cũng
thương chính thân mình. Để đeo đuổi việc học, T. không hề dám tiêu pha phung
phí một đồng, một cắc nào cho bản thân. Mấy bộ quần áo thời cấp 3 đã cộc, đã sờn
mà đâu dám mua cái mới.T. tránh xa những bạn bè có điều kiện trong lớp để khỏi
phải tham gia vào những bữa liên hoan, tiệc tùng tốn kém. Nhất nhất chỉ dành
cho việc học. Nhà nước có chính sách cho sinh viên nghèo vay tiền. Bố mẹ T. vay
nhưng đã phải tiêu hết vào việc khác, đến năm học thứ 3 bố mẹ T. thấy quá mệt mỏi
không còn sức lo cho T. ăn học nữa! Vậy là học hết năm thứ 3, T. đành phải xin
trường cho bảo lưu kết quả học tập. T. nghỉ học và xin làm công nhân tại nhà
máy Sam Sung với suy nghĩ kiếm một khoản tiền để năm sau sẽ quay lại học nốt
năm thứ 4. Những ngày lao động cực nhọc tại nhà máy, tăng ca triền miên, T.
cũng chỉ kiếm được 4,5 triệu đồng/ tháng. Chắt bóp mọi khoản, sau một năm em
quay trở lại và hoàn thành nốt năm học cuối của mình. Tháng 6/2016. T. tốt nghiệp
ra trường với tấm bằng loại khá trước sự thán phục của bạn bè và người thân. Cầm
tấm bằng cùng hàng chục bộ hồ sơ trên tay em lang thang đi xin việc khắp nơi mà
đến đâu người ta cũng không nhận, lý do không nhận vì em không có chứng chỉ ngoại
ngữ từ B1 trở lên (nghĩa là phải giao tiếp tiếng Anh hoặc tiếng Hàn thông thạo)
và không có chứng chỉ tin học…Vậy là tấm bằng cử nhân quản trị kinh doanh dường
như vô giá trị. Cất lại tấm bằng trong ô kéo nhỏ, T. lại lầm lũi xin đi làm tại
Sam Sung! Khi gặp T. em nhìn tôi mà nước mắt rơi lã chã, em nghẹn ngào nói
trong nước mắt: “Chú ơi! Cháu thấy hối hận quá vì đã học Đại học! Ai cũng bảo cố
học để đổi đời, nào ngờ đời đâu có đổi được, nhà cháu giờ càng nghèo thêm vì
cháu. Giờ cháu phải đi làm để lấy tiền giúp bố mẹ trả nợ. Lương chỗ cháu làm hiện
giờ chỉ được 3,7 triệu đồng/tháng, chi tiêu tằn tiệm hết mức rồi cũng chỉ để ra
được vài trăm. Tuần nào cũng thấy mẹ gọi điện, nhắn tin bảo gửi tiền về. Mẹ
nghe người ta kháo, bảo là làm ở đây lương hàng chục triệu đồng nên tưởng thật.
Khổ cháu thế đấy, cháu biết làm sao đây?!” Nhìn T.với làn da xanh tái bởi phải
thường xuyên thức đêm và ăn uống kham khổ mà lòng tôi cũng thấy nao nao! Thương
cháu mà tôi cũng chẳng làm được gì hơn ngoài vài lời an ủi xã giao dẫu biết đó
là sự cao đạo giả tạo của chính mình! Hoàng Văn Sỹ hoàn cảnh có khá hơn so với
T, Sỹ được bố mẹ chu cấp cho hết 4 năm học Đại học. Ra trường đến nay đã 3 năm,
làm hàng chục hồ sơ, chạy khắp các tỉnh từ Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng,
Tuyên Quang mà vẫn không nơi nào tiếp nhận, mệt mỏi trở về, Sỹ xin đi làm thợ
xây cùng tốp thợ ở xóm. Ngày ngày đánh vữa, bê gạch để mỗi tháng nhận lấy 4 triệu
đồng tiền công. Hôm gặp Sỹ đang làm giữa trời nắng nóng, chiếc áo phông in logo
Đại học sư phạm Thái Nguyên niềm tự hào ngày nào của Sỹ giờ đây nó nhàu nhĩ bám
đầy vôi vữa. Làn da trắng thư sinh ngày nào, nay đã sạm đen bởi nắng gió. Khi
trò chuyện với tôi Sỹ nói với giọng đầy chua chát: “Bác cũng giống như các thầy
giáo trường Đại học của cháu, cứ động viên chúng cháu cố mà học, “học nó ấm vào
thân” vậy mà bây giờ bác thấy đấy công việc cháu làm là thế này đây. Bác biết
không, anh Trà làm “cai” của bọn cháu chỉ học hết lớp 9 giờ thuê bọn cháu làm
giá chỉ có 140 nghìn đồng/ngày. Cứ tính công trả tiền, không bảo hộ, bảo hiểm,
chẳng nghỉ lễ tết... Cũng may anh ấy còn cho làm đấy bác ạ! Nói đến học cháu thấy
buồn lắm rồi! Học một đằng, làm một nẻo, cái học họ không yêu cầu mà lại cứ đòi
hỏi những cái bằng đâu đâu ấy, quả là làm khó cho chúng cháu. Học chính quy đã
khốn nạn rồi, thời gian, tiền bạc đâu mà học thêm các thứ khác nữa chứ bác?!”
Nói rồi Sỹ chỉ cho tôi 2 cậu bạn đang bốc gạch và xe cát bên cạnh bảo: “Hai thằng
này cũng vừa tốt nghiệp năm kia đấy bác ạ! Thằng là Toán tin, thằng là Ngoại ngữ
mà học tận Hà Nội đấy bác ạ!” Nghe vậy tôi liền hỏi hai cậu kia: “Học dưới Hà Nội
sao các cháu không tìm cách trụ lại dưới
đó, đi xin việc có tốt hơn không là về quê thế này?” Cậu học Ngoại ngữ cười hì
và bảo: “Khó lắm bác ơi! Cháu cũng lặn lội hơn một năm ở dưới đó rồi, dùng đủ mọi
“mưu mẹo” để tồn tại nhưng rồi không trụ được đành “bật bãi” về quê, thôi thì
tiền ít, tiêu ít, không mất tiền nhà, tiền điện, nước, cơm lại có bố mẹ nuôi giờ
làm thế này hóa ra chúng cháu còn có tiền tiêu bác ạ!” Vừa lúc ấy tiếng anh thợ
cả quát gọi từ trên cao, ba “cử nhân” vội vã quay lại với công việc của mình
quên cả chào tôi! Riêng với Nguyễn Thị H. gặp tôi nơi cổng chợ, em đang ngồi bó
lại những mớ rau. Thấy tôi em cười ngượng nghịu, nét mặt u uất. Khi tôi hỏi :
“Dự định tương lai của cháu thế nào?”Ngập ngừng hồi lâu H. nói: “Hoàn cảnh của
cháu ở đây ai chẳng biết. Ngay từ khi đi học cháu cũng đã nghĩ sẽ không thể xin
được việc làm. Vì ai muốn nhận những người có lý lịch “đen” như cháu chứ! Nên
giờ cháu về buôn rau thế này thôi bác ạ! Tương lai của cháu là ở cái chợ này!”
Câu nói của H. làm tôi không dám đứng lâu. Hè vừa qua tôi về quê chơi, cô em
tôi có đứa con học khoa Sử Đại học sư phạm Thái Nguyên ra trường cũng đã 4 năm,
tôi hỏi giờ cháu dạy học ở đâu? Thì em tôi
ngẩn người ra, tần ngần một hồi lâu rồi cô bảo: “Dạy dỗ gì đâu bác, cháu nó
không xin được chỗ nào cả, ở nhà dăm tháng quẩn quanh rồi nó xin đi làm công
nhân may ngay trên thị trấn. Khổ thân nó, cho cháu ăn học em phải bán mất cả đàn
bò 8 con, vậy mà giờ vẫn thất nghiệp. Năm ngoái em cho cháu xây dựng gia đình rồi!
Biết thế không học nữa cho nó 8 con bò làm vốn như thế chúng lại đỡ khổ bác ạ!”
Nghe vậy tôi cũng chỉ biết ngậm ngùi mà chẳng biết nói sao.Tôi ra về mà trong
lòng cứ hoang mang những câu hỏi. Thế hệ thanh niên, lực lượng lao động chính của
xã hội giờ họ suy nghĩ gì về việc học? Liệu họ có đủ kiên nhẫn để chờ một phép
màu nào đó xảy ra với cuộc đời họ không? Trong khi đất nước đầy những biến động
thế này?!Tiền của bỏ ra ăn học giờ bỗng trở nên vô ích! Ôi buồn thay! Thương
thay!
III. Đôi lời kết.
Ước mơ học để đổi đời, học để
thay đổi cuộc sống luôn là những ước mơ đẹp đẽ đáng được mọi người trân trọng.
Tuy nhiên, sự học ngày nay bộc lộ rất nhiều những bất cập. Những nhà tuyển dụng
thường đưa ra những yêu cầu rất cao mà thực tế các tân cử nhân khó có thể đáp ứng
được. Mặt khác do nhu cầu học tập tăng nhanh, trong những năm qua đã cho ra đời
hàng loạt các trường Đại học mà chất lượng giáo dục quá là yếu kém, khiến cho
những tân cử nhân gặp rất nhiều khó khăn sau khi ra trường dẫn tới thất nghiệp
hàng loạt! Bên cạnh các trường Đại học là hệ thống các Trung tâm giáo dục thường
xuyên, nơi đào tạo, bồi dưỡng tại chức mà thực tế đây là những trung tâm “nhuộm
lông” cho các sĩ tử con quan vốn học dốt nên phải tiến thân bằng con đường vòng
“tại chức” mà mọi người thường riễu là “tại chỗ”! Họ là những người học tập kém
không thể thi vào Đại học nhưng có người
thân trong cơ quan nhà nước nên chỉ cần có bằng trung cấp hoặc cao đẳng là họ
đã được tuyển dụng. Khi đã yên vị thì họ vào những trung tâm để “nhuộm lông”
qua khóa học họ cũng trở thành cử nhân cho dù năng lực thật của họ thì chỉ có họ
mới biết như thế nào?! Đó là những rào cản đối với những tân cử nhân học chính
quy, học thật! Đã có nhiều tỉnh như Đà Nẵng nhiều năm nay lãnh đạo địa phương
này kiên quyết không nhận cử nhân tại chức. Tuy nhiên, đó cũng chỉ như những hạt
cát bé nhỏ trên biển người thất nghiệp mênh mông mà thôi! Nỗi chuân chuyên của
các cử nhân đi xin việc mới buồn thảm biết bao! Chưa bao giờ tôi thấy nạn thất
nghiệp tràn lan và nhức nhối như hiện nay. Tìm được một công việc rất bình thường
như dạy mẫu giáo, hay viên chức văn phòng nghe nói cũng phải bỏ ra từ vài chục
đến vài trăm triệu đồng. Than ôi! Với những yêu cầu thi tuyển rất khắt khe kèm
theo những điều kiện ngặt nghèo… và nhất là số tiền lo lót như vậy thử hỏi có
bao nhiều tân cử nhân trong số trên 200 ngàn người lọt được vào làm viên chức,
công chức nhà nước! Bao giờ những vấn nạn này mới hết để các tân cử nhân còn có
hy vọng! Trên vai họ giờ đây là gánh nặng nợ nần do phải tiêu tốn cho việc học
tập. Nếu có cơ may xin được việc thì lại cộng thêm khoản nợ tiền xin việc. Theo
ước tính của dư luận xã hội để có việc làm những tân cử nhân phải lao động miệt
mài, phấn đấu hết mình, không ăn, không tiêu thì ít nhất cũng phải 8 – 10 năm mới
trả hết nợ tiền xin việc! Và hiện trong dân gian đang truyền miệng câu nói: “Nhất
hậu duệ, nhì tiền tệ, ba quan hệ, bốn trí tuệ.”Nghe thật đắng lòng cho các tân
cử nhân con nhà nghèo, không phải hậu duệ và cũng chẳng có tiền tệ!
Bùi Nhật Lai
No comments:
Post a Comment