Search This Blog

Tuesday, August 14, 2018

NGƯỜI GIEO MẦM NUÔI NHỮNG ƯỚC MƠ

NGƯỜI GIEO MẦM NUÔI NHỮNG ƯỚC MƠ
                                                                                                   Bút ký
     Tôi có thiện cảm với chị ngay từ giây phút đầu gặp gỡ. Thân hình dong dỏng cao, nước da bánh mật khỏe khoắn, mái tóc dài ngang vai được cặp gọn ghẽ sau gáy, đặc biệt là khuôn mặt thanh tú với cặp mắt sáng và làn môi luôn nở nụ cười. Chỉ thoáng qua như vậy chị đã tạo cho tôi có cảm giác chị là người phụ nữ rất năng động, hoạt bát và thông minh.
     Chị là Nguyễn Thị Quỳnh cán bộ bán chuyên trách về giao thông, xây dựng và lâm nghiệp xã Hóa Trung, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Một công việc mà chỉ nghe qua thôi người ta cũng cảm thấy nó không mấy phù hợp với phụ nữ. Bởi đó là những công việc đòi hỏi người ta phải có sức khỏe nó hợp với đàn ông hơn là với chị em phụ nữ vốn xưa nay thường được xếp vào dạng “chân yếu, tay mềm” thường chỉ quen với công việc nữ công gia chánh. Ấy vậy mà công việc đó ở xã Hóa Trung này lại được giao cho chị ! Nghĩ thế nên tôi hỏi chị:
   - Em cảm nhận thế nào về công việc của mình? Nó có phù hợp với em không ?
   Chị nhìn tôi mỉm cười và đáp rất tự nhiên:
   - Em thấy cũng bình thường và em làm tốt mà anh. Nó cũng giống như bao công việc khác thôi. Tuy nhiên, công việc của em nhiều nên hầu như em phải dành hết thời gian cho nó nên ít có thời gian rảnh anh ạ!
   Câu trả lời bình thản về công việc của mình như vậy khiến tôi cảm thấy chị là người phụ nữ mạnh mẽ và rất quyết đoán. Thì ra khi người ta đã quen, đã gắn bó với công việc của mình và cao hơn nữa là yêu công việc của mình thì người ta cảm thấy công việc đó chẳng có gì là đáng ngại, đáng kêu ca, hay phàn nàn và như vậy họ chỉ còn biết chăm chú vào công việc, tự tìm ra các phương án, giải pháp tốt nhất, thích hợp nhất để hoàn thành nó trong thời gian sớm nhất có thể mà thôi. Và trong trường hợp này hẳn chị Quỳnh cũng vậy! Với trọng trách phải đảm nhiệm 3 phần việc chính của một xã đó là giao thông, xây dựng, lâm nghiệp chả nói thì hẳn mọi người cũng hình dung ra khối lượng công việc lớn đến mức nào. Cả nước đang trong phong trào xây dựng nông thôn mới với những tiêu trí như điện, đường, trường, trạm, các làng xóm đâu cũng thấy người ta bê tông hóa cầu đường, liên xóm, liên xã rồi việc xây dựng trường lớp diễn ra liên tục… đó là áp lực rất lớn cho những người phụ trách công tác giao thông và xây dựng ở địa phương. Ngoài ra Hóa Trung lại là một xã mà diện tích đồi rừng có tới 249 ha, việc định danh quy hoạch rừng đồi cũng không hề đơn giản chút nào. Nghĩ đến đây tôi lại hỏi:
   - Vậy thời gian làm việc của em như thế nào ?
   - Ôi nói đến thời gian thì em phải đi suốt nhiều khi cả tuần luôn rất ít có ngày nghỉ, nào làm đường bê tông ở xóm này, quy hoạch xây dựng ở xóm kia, rồi đồi rừng nữa… cả xã có 13 xóm, địa bàn rộng như vậy nên em phải đi lại rất nhiều. Mấy năm gần đây thực hiện chủ trương tinh giảm biên chế công chức thì một cán bộ cấp xã như chúng em ai cũng phải kiêm nhiệm thêm những đầu việc mới. Lúc đầu cũng thấy mệt, làm rồi cũng quen cả anh ạ ! Hiện giờ cơ quan lại giao cho em làm thêm văn thư, bưu tá và bảo vệ nữa. Làm rồi cũng quen mà anh. Làm ngày không đủ thì tranh thủ làm đêm, làm vào ngày nghỉ, vào giờ nghỉ trưa. Lâu lâu mới có chút thời gian thư thả anh ạ. Bù lại thu nhập của em được trả lương theo các đầu việc mỗi tháng cũng được trên 7 triệu đồng !
  Nghe đến đây thì tôi không khỏi trố mắt ngạc nhiên. 3 phần việc chính kia kham được đã là quá giỏi, giờ lại thêm 3 việc mới nữa mà việc nào cũng cần phải có thời gian cả nhất là làm bảo vệ, công việc này đáng ra phải là đàn ông chứ ? Sao lại là chị nhỉ? Chị đưa tôi đi từ ngỡ ngàng này qua ngỡ ngàng khác. Quả thật công việc ở cơ sở như vậy là quá vất vả đối với một người phụ nữ như Quỳnh. Nhâm nhi chén chè Quỳnh mời, tôi quan sát căn nhà riêng của mẹ con Quỳnh, đồ đạc được bài trí gọn gàng, ngăn nắp, một vài bức ảnh của chị cùng các thành viên trong gia đình xen lẫn những giấy khen mang tên của chị được treo ngay ngắn trên tường phòng khách. Trước cửa có hàng rào xây bao quanh và rất nhiều hoa hồng, hoa đồng tiền mới được trồng và ươm trong các chậu cảnh. Tất cả toát lên vẻ đẹp không chỉ nền nã mà còn mang cả tính thẩm mỹ cao. Điều này cho thấy chủ nhân cũng là người có gu thẩm mỹ khá tinh tế. Trước nhà là thung lũng nhỏ, phía bên kia là đồi keo, râm ran trong tán lá tiếng ve đang réo rắt gọi hè về. Không gian xanh trong lành, gợi cảm giác thoáng đãng và thư thái cho con người. Thấy tôi mải mê quan sát Quỳnh khẽ nói với tôi:
   - Nhà em đơn giản chỉ có vậy, chả có gì đáng kể cả! Em phải xây cơi nới do trước kia không có điều kiện ạnh ạ!
   - Em có thể kể sơ qua cho tôi nghe về gia cảnh của em được không?
   Thoáng chút ưu tư hiện lên trên khuôn mặt Quỳnh, chị rót thêm nước vào chén cho tôi rồi khẽ khàng kể cho tôi nghe.
  -  Em ly hôn đến nay đã 10 năm rồi ạnh ạ ! Một mình em nuôi hai con trai, cháu lớn năm này 22 tuổi vừa xây dựng gia đình hồi cuối năm ngoái, cháu bé sinh năm 1999 hiện cháu đang đi học nghề. Một mình nuôi dạy con cái vất vả gấp nhiều lần khi người ta có cả vợ, lẫn chồng…
  Tôi thật sự bất ngờ khi nghe câu chuyện của Quỳnh. Tôi lặng lẽ lắng nghe chị kể mà không dám hỏi thêm điều gì, tôi không nỡ chạm vào vết thương tình cảm của chị. Nhìn chị không ai có thể nghĩ một phụ nữ tài sắc vẹn toàn như chị mà lại gặp cảnh éo le thế này ?
  - Năm 2001 em tham gia công tác ở Ủy ban xã – Quỳnh tiếp tục kể –  Làm quen và gắn bó với công việc từ đó và cũng trải qua nhiều thăng trầm trong đời. Năm 2009 do yêu cầu của địa phương em theo học lớp Trung Cấp Khuyên Nông Lâm, đến năm 2011 tốt nghiệp về địa phương tiếp tục công tác cho tới nay.
   - Em rất bận như thế, vậy em làm cách nào để không những hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình tại cơ quan mà lại còn đầu tư phát triển kinh tế gia đình như hiện nay ? – Tôi cắt ngang câu chuyện của Quỳnh và hỏi.
   - Tất cả cũng là do sự thúc bách của cuộc sống anh ạ ! Em luôn xác định phải tự lực cánh sinh vươn lên bằng chính sức mình. Chỉ có vậy mình mới không trở nên lạc hậu mà đã lạc hậu là đi liền với nghèo khổ. Em tự nhủ mình học nông lâm, lại sinh ra ở nông thôn, ruộng đồi gắn bó với mình ngay từ tấm bé thì không lý gì mà mình không dựa vào đó để làm kinh tế. Như anh thấy đấy địa phương em bao bọc bởi đồi núi. Từ nhiều năm qua thế mạnh vườn rừng đã được bà con quê em chú trọng phát triển và đem lại những lợi ích kinh tế đáng kể. Vậy là em nảy ra ý định làm vườn ươm cây lâm nghiệp. Chuyên môn mình có, cộng thêm vị trí công tác của em ở xã nên có quan hệ quen biết rộng. Năm 2014 em đầu tư 130 triệu đồng để xây dựng vườn ươm, em thuê 3000m2 đất ngay cạch quốc lộ 1B. Thời gian đầu làm cũng vất vả, một mình tự lo tất tật từ  thuê nhân công, đến khâu làm đất, đóng bầu. Các cháu còn nhỏ và đang đi học nên cũng chẳng giúp được gì. Được cái gia đình bên ngoại ông bà cũng rất thương em nên cũng chung tay giúp đỡ cho em. Vậy rồi em cũng thành công. Mỗi lứa cây thường kéo dài từ 3 – 4 tháng khi cây có chiều cao chừng 35 – 40 cm là lúc được xuất vườn.
   - Ươm cây như vậy thì giai đoạn nào là vất vả nhất ?
   - Giai đoạn đầu từ khi làm đất, gieo hạt, vào bầu cho đến khi cây nẩy mần phát triển kéo dài khoảng 1,5 tháng đây là giai đoạn vất vả nhất, mình phải chú ý tưới đủ nước, đảo bầu, che phủ ánh sáng thích hợp, thường xuyên kiểm tra phát hiện sâu, bệnh để xử lý kịp thời, rồi dâm cây, làm cỏ, tưới phân theo đúng quy trình cây mới phát triển tốt.
   - Vậy mỗi vụ cây em thu lãi được bao nhiêu?
   - Mỗi vụ em ươm được 40 vạn cây, trừ các khoản chi phí như tiền thuê nhân công, tiền phân, tiền thuốc sâu, tiền thuê đất… em thu lãi được 40 triệu thôi.
   Với 40 triệu đồng mà công việc kéo dài trong vòng 4 tháng. Đây cũng là một nguồn thu không hề nhỏ đối với bà con nông dân hiện nay. Nếu cây bán chạy một năm cũng có thể làm được 2 vụ số tiền cũng tăng lên.
   - Em có ý định mở rộng diện tích vườn ươm và chủng loại cây không?
   - Em không có ý định mở rộng nữa mà chỉ duy trì như hiện nay thôi vì neo người quá, các cháu còn đang đi học mà công việc ở cơ quan của em cũng rất bận. Riêng về giống cây em cũng sẽ gieo ươm thêm một số giống cây mới như xoan đào, bạch đàn Úc phục vụ nhu cầu của bà con. Từ cuối năm ngoái em lại chuyển hướng sang ươm cả hoa giống nữa như hoa đồng tiền, hoa hồng, cẩm tú cầu, địa lan… đây cũng là những giống cây nhiều người thích, mình có thể bán trong các dịp lễ tết.
    Chị bảo chị đã mua được lô đất rộng 2000m2 và đã thuê nhân công san phẳng để chuyển vườn ươm về đó, như vậy chị sẽ không mất tiền thuê đất nữa. Kể đến đây chị bảo cậu con trai đưa tôi đi thăm vườn ươm, cũng như khu đất mới của chị.
   Chia tay Quỳnh mà tôi vô cũng cảm phục ý chí và nghị lực vươn lên làm giàu của chị. Với sự nỗ lực của mình trong suốt nhiều năm qua, năm nào chị cũng nhận được giấy khen của xã, của huyện trao tặng vì đã hoàn thành xuất sắc công việc được giao. Chị được các đồng chí lãnh đạo và anh chị em trong cơ quan rất tín nhiệm và đánh giá cao về phẩm chất đạo đức cũng như năng lực công tác. Chị chẳng những là một đảng viên gương mẫu trong công tác, giỏi việc nước, đảm việc nhà mà chị còn biết tự lực vươn lên làm giàu cho bản thân, chị quả là một tấm gương sáng cho bà con địa phương noi theo!
   Một mùa trồng rừng lại đến chả mấy nữa mà vườn cây của Quỳnh sẽ được bán hết. Với công việc này chị đã góp một phần giúp phủ xanh đồi núi của bà con nơi đây và rừng sẽ đem về nguồn thu nhập lớn cho nhiều gia đình trong tương lai. Tôi hình dung ra những ngọn đồi xanh mướt được bao phủ bởi một màu xanh mát mắt, tôi hiểu trong những mảng rừng đó có một phần công sức của phụ nữ đảm đang này, đã bao ngày dầu dãi nắng mưa ươm những mầm xanh! Tôi cũng hình dung ra ngôi nhà nhỏ của chị rồi mai đây sẽ ngập tràn hương sắc các loài hoa và hạnh phúc sẽ đến với chị. Bởi chị là người đang gieo mầm nuôi những ươc mơ!
                                                                       
                                                                      Đ/C:  Bùi Nhật Lai
                                                                    Tiểu khu Cầu Lân – TT Đu
                                                                     Phú Lương – Thái Nguyên
                                                                         ĐT: 0978.719403


                                   2 GIỜ TRONG DINH ĐỘC LẬP
                                                                                                     Bút ký                                                                                                                          
     Tôi vô tình biết đến tên anh qua một bản tin ngắn trên facebook và giật mình khi nhận ra anh ở cùng xã với tôi. Vậy là ngay sáng hôm sau, 1/5 tôi tìm đến nhà anh.
    Chạy xe tới cổng làng, rất may tôi gặp một người quen, anh vui vẻ dẫn tôi đến tận nhà. Tôi phóng xe vào sân, lúc này chỉ có một cháu bé chừng 4 tuổi đang đứng trước cửa, tôi hỏi thì cháu bé bập bẹ trả lời:
  - Ông nội vừa đi rồi. Có mẹ và em ở nhà thôi.
  Tôi chợt nghĩ, vậy là không gặp được anh rồi, dịp này có lẽ anh lại đi họp hội đồng ngũ rồi chăng? Đang băn khoăn thì cô con dâu của anh từ bếp đi ra chào tôi. Khi biết tôi tìm gặp bố, cô bảo tôi:
  - Chú vào nhà đi, để cháu gọi điện cho bố cháu về.
   Nói rồi cô gọi điện bảo bố về có khách. Tôi vào nhà ngồi chờ, quan sát căn nhà xây 4 gian, tường vôi đã bị dấu thời gian làm loang lổ, đồ đạc trong nhà cũng rất đơn giản. Chừng 20 phút sau anh phóng xe về. Tôi đứng dậy bước ra cửa chào anh. Anh nhìn tôi thoáng chút ngỡ ngàng vì không quen biết, thấy vậy tôi tự giới thiệu mình với anh. Anh vui vẻ đun nước pha chè tiếp tôi. Và khi nghe tôi nói về mục đích chuyến thăm của mình, anh vừa rót nước mời tôi, anh vừa kể cho tôi nghe câu chuyện hết sức cụ thể và chi tiết. Phải nói anh là người có trí nhớ tuyệt vời, nói năng lưu loát, tính tình bộc trực, thẳng thắn. Tôi ngồi nghe anh hào hứng kể và ngay lập tức bị cuốn vào câu chuyện của anh.
  I – Câu chuyện của người lính buổi trưa 30/4/1975 trong dinh Độc Lập.
   Nhấp chén chè nóng trên tay rồi anh bắt đầu kể:
   - Tôi tên là Trần Đức Tình, sinh năm 1952, dân tộc Cao Lan, quê: Làng Mai, xã Phấn Mễ, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên. Tôi nhập ngũ tháng 12 năm 1971, sau đó được huấn luyện tại sư đoàn 304B đóng tại huyện Phú Bình, Bắc Thái. Đến tháng 6 / 1972 đơn vị tôi được lệnh đi B và điều động vào sư đoàn 304A, phiến chế theo đơn vị A6, B2, C6, D2, E9, F304 thuộc Quân đoàn 2 trực tiếp tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị khu vực vòng ngoài thành cổ thuộc các xã Hải Lăng, Triệu Phong, Phong Điền. Tuy, không nằm trong thành cổ Quảng Trị nhưng chiến trường nơi đây ác liệt cũng không kém. Cả ta và địch đều coi Quảng Trị như một “tử huyệt” bên nào giành được sẽ làm chủ và án ngữ được cả khu vực miền trung bao gồm Quảng Trị, Tà Cơn, Khe Xanh, Dốc Miếu… và đường số 9 thông xuống Nam Lào. Cũng bởi lẽ đó mà Mỹ Ngụy cho xây dựng một hệ thống cứ điểm phòng ngự dày đặc và hết sức kiên cố với trang thiết bị kỹ thuật, vũ khí, khí tài hết sức hiện đại cùng hàng ngàn quân bao gồm cả lính Mỹ và lính Ngụy. Sau mùa hè 1972 rực lửa, trải qua 81 ngày đêm chiến đấu ác liệt với bao hy sinh mất mát, ta đã giáng cho Mỹ Ngụy một đòn chí tử, tạo tiền đề cho phái đoàn ta đàm phán tại Paris. Sau hiệp định Paris ngày 27/1/1973. Đơn vị tiếp tục chốt đóng tại Quảng Trị để xây dựng và củng cố lực lượng, bảo vệ vùng giải phóng, chống sự lấn chiếm của địch.
   - Anh là người trực tiếp tham gia chiến đấu tại chiến trường Quảng Trị, cảm nhận của anh về những ngày tháng đó như thế nào? – Tôi ngắt lời anh hỏi:
   - Phải nói là khủng khiếp ! Những ngày đó chúng tôi luôn cận kề với cái chết, có khi đồng đội mấy phút trước còn giở lương khô ra cùng ăn, lát sau đã hy sinh, nhưng sống vậy nó cũng thành quen, anh em chiến sỹ đâm chai lỳ với bom đạn, ai cũng nghĩ “bom đạn nó tránh mình chứ mình biết đâu mà tránh nó”! Vậy nên anh em vẫn vô tư cười nói và ngày đêm kiên cường bám chốt đánh giặc!
   Thì ra người chiến sĩ là như thế đó! Họ chịu đói, chịu rét… nơi chiến trường ác liệt giữa mưa bom, bão đạn họ đã làm quen với cái chết và rồi họ coi thường cái chết. Trong lòng họ chỉ có một ý chí quyết tâm là phải quyết chiến, quyết thắng! Vừa kể anh vừa nhìn tôi, ánh mắt long lanh ngấn lệ. Hẳn lúc này đây anh đang hồi tưởng lại những tháng ngày oanh liệt của hơn 40 năm về trước…mồ hôi, xương máu của các anh đã đổ xuống cho ngày hòa bình. Bao đồng đội của anh đã ngã xuống, họ không may mắn được trở về như anh!  Ngoài kia trong tán cây trước vườn đã nghe tiếng ve khắc khoải gọi hè về ! Trời tháng 5 đã hé mở. Sau giây phút xúc động anh lại kể :
  - Đầu xuân 1975 đơn vị nhận lệnh tiến vào Quảng Nam – Đà Nẵng, chúng tôi đi trong đội hình quân đoàn 2 đánh vào bộ tư lệnh vùng chiến thuật 1 của Ngụy do tướng Ngô Quang Trưởng làm tư lệnh – Đây là một viên tướng nổi tiếng sừng sỏ của Ngụy. Trước sức tấn công như vũ bão của ta ngày 29/3/1975 Đà Nẵng hoàn toàn giải phóng, Ngụy quyền ra lệnh “tùy nghi di tan”. Đơn vị tôi lúc này tham gia cùng địa phương xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng và chuyển sang huấn luyện khoa mục đánh chiếm thành phố, chuẩn bị cho chiến dịch tổng tiến công sắp tới. Đến ngày 12/4/1975 đại đội tôi cùng trung đoàn xuống tàu biển của hải quân, sau một ngày, một đêm, sáng ngày 14/4/1975 đơn vị chúng tôi đổ bộ lên cảng cá Quy Nhơn, đánh chiếm ga xe lửa, chiến đấu giải phóng Quy Nhơn tiếp đó đơn vị vận hành theo xe lửa vào Diên Khánh – Khánh Hòa, tiếp tục truy kích địch dọc theo quốc lộ số 1. Đêm 25/4/1975 đội hình C6, D2, E9 được lệnh hành quân cấp tốc từ đồn điền cao su Ông Quế vào tiếp cận căn cứ Nước Trong đây là một căn cứ trọng yếu của địch nơi có trường sĩ quan lục quân của chúng chốt giữ. Nên địch bố trí phòng ngự rất kiên cố. Mờ sáng ngày 26/4/1975 đơn vị vào vị trí tập kết, các chiến sĩ được lệnh triển khai đào công sự chuẩn bị chiến đấu. Đến 17 giờ 15 phút ngày 26/4/1975 pháo của ta cấp tập bắn vào căn cứ Nước Trong. Sau khi pháo binh ngừng bắn để bộ binh xông lên tiếp cận đồn địch, lúc này tiểu đội trưởng tiểu đội 6 Cao Tiến Bang phát lệnh mở cửa hàng rào để vào căn cứ, khi bọc phá nổ hết nhưng vẫn còn hàng rào trong cùng chưa phá được. Tôi lúc đó là tiểu đội phó liền xông lên, trèo qua hàng rào thép gai, dùng sức đôi tay trần bẻ gập cọc sắt hàng rào, mở đường cho đội hình đại đội xông vào đánh chiếm căn cứ. (Nhờ thành tích này mà sau này tôi được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng nhất.) Trong 3 ngày từ 27 đến 29/4/1975, đơn vị củng cố trận địa và chặn đánh địch phản công ở khu vực ngã ba Thái Lan đường 15 đi Bà Rịa – Vũng Tàu. Khi đến cầu sông Buông thì cây cầu này đã bị địch đánh sập trước khi tháo chạy. Đơn vị tiếp tục triển khai đội hình chiến đấu, bảo vệ bộ đội công binh khắc phục lại cầu. Mờ sáng 30/4/1975 cầu được khắc phục. Theo đề nghị của chỉ huy lữ đoàn tăng 203 quân đoàn 2 chúng tôi hộ tống xe tăng tiến vào Sài Gòn. Tôi bám theo xe tăng 843 của Bùi Quang Thận. Khi tới cổng dinh Độc Lập xe tăng 843 húc vào một cánh cửa nhưng bị kẹt, không chần chừ Bùi Quang Thận cầm cờ nhảy ra khỏi xe chạy thẳng vào trong sân dinh.Tôi cùng các chiến sỹ trong tiểu đội nhảy ào từ nóc xe xuống lao vào theo, lúc ấy số binh sĩ và công chức Ngụy đang đứng ngồi nhốn nháo. Tôi dùng mệnh lệnh tập hợp toàn bộ số lính và công chức Ngụy lại, bắt chúng cởi bỏ hết giầy dép và cử các chiến sỹ trong tiểu đội đứng canh chừng. Lúc đó anh Thận đã chạy vào trong dinh, thấy vậy tôi liền lao theo để yểm trợ khi đến sân thượng tôi thấy anh Thận đang tháo gỡ lá cờ của Ngụy nhưng do hai dây buộc chặt nên chưa tháo được, thấy vậy tôi chạy lại dùng dao găm cắt đứt một nút dây buộc cờ, anh Thận dùng tay giật mạnh nút cờ còn lại, khiến lá cờ ngụy bị rách toạc một góc tại nút buộc đó. (Con dao đó của tôi sau này được đưa về trưng bày trong Bảo tàng lịch sử quân đội.) Ngay sau đó Bùi Quang Thận nhanh chóng treo lá cờ giải phóng lên. Tôi quay trở lại phía dưới thì thấy một sỹ quan của ta đeo súng ngắn và xà cột, cùng một chiến sỹ nữa đang chạy trong hành lang, tôi liền chạy theo hỗ trợ. Sau này tôi biết đó là anh Phạm Xuân Thệ. Khi chúng tôi tiến vào phòng họp thì đã thấy toàn bộ nội các chính quyền Ngụy ngồi tại đây. Chúng tôi yểm trợ anh Thệ và cũng là người chứng kiến khoảnh khắc lịch sử quân ta bắt toàn bộ nội các và đưa tổng thống Dương Văn Minh ra đài phát thanh để đọc lời tuyên bố của chính quyền Ngụy xin đầu hàng quân giải phóng. Lại nói về xe tăng húc đổ cổng sắt. Khi xe 843 bị kẹt do chết máy ngay trước cổng cùng lúc này xe tăng 390 ở ngay cạnh liền vòng sang phía trái húc văng cổng sắt mở đường cho quân ta tràn vào. Trong lúc hỗn độn đó là người lính nhiệm vụ của chúng tôi là chiến đấu, trách nhiệm là chiến thắng nên dường như anh em không ai chú ý đến việc xe nào vào trước, xe nào vào sau, lúc đó hẳn ai trong số chúng tôi cũng chỉ có chung một suy nghĩ là mau chóng chiếm phủ đầu rồng mà thôi. Sau khi ổn định tình hình tại dinh Độc Lập đến 13 giờ 30 đơn vị chúng tôi được lệnh tập kết ra quân cảng Sài Gòn để tiếp tục giải phóng các tỉnh miền Tây. Như vậy đơn vị chúng tôi đã có mặt khoảng 2 giờ tại dinh Độc Lập. Vậy mà từ trước đến nay sử sách đều chỉ nói đến chiến công của bộ đội tăng thiết giáp mà quên đi những người lính bộ binh như chúng tôi đã trực tiếp có mặt ngay trong thời khắc đầu tiên đó.
       Kể đến đây anh cười, nụ cười thoáng chút buồn. Rồi anh đứng lên vào buồng cầm ra một túi tư liệu bao gồm ảnh và báo. Anh đưa cho tôi, rồi chỉ cho tôi xem từng tấm ảnh, đọc tên từng người cùng địa chỉ quê quán của họ mặc dù những bức ảnh đã bị thời gian làm mờ ố. Đặc biệt trong đó có gần chục tấm ảnh do nữ nhà báo Pháp Phrăngxoa đờ Muy dơ chụp ngay trong trưa ngày 30/4/1975. Nhờ nữ nhà báo này cùng những tấm ảnh bà chụp và cũng phải sau 20 năm xe 390 mới được xác minh là xe húc đổ cổng sắt tiến vào trong dinh Độc Lập. Còn chiến công của những người lính bộ binh chúng tôi thì đến giờ vẫn chưa được sử sách nào nói tới mặc dù anh em chúng tôi đã có đề nghị lên Bộ quốc phòng và Tổng bí thư.
II – Người lính về với đời thường.
    Sau chiến thắng 30/4/1975 đến tháng 10 /1977 anh Trần Đức Tình chuyển ngành về lái xe tại mỏ than Khánh Hòa – Thái Nguyên. Năm 1978 anh xây dựng gia đình cùng chị Nguyễn Thị Bình là giáo viên cấp 1, hai anh chị có với nhau 2 con gái và 1 con trai, hiện các cháu đều đã xây dựng gia đình và có công ăn việc làm ổn định. Anh đã nghỉ hưu từ năm 2008, hiện giờ anh là chi hội trưởng Hội cựu chiến binh làng Mai. Anh được tặng một Huân chương chiến công hạng nhất, một Huy chương chiến sỹ giải phóng, một Kỷ niệm chương chiến sỹ Quảng Trị, một Huy hiệu chiến dịch 1975. Điều tôi lấy làm khâm phục anh, tuy đã 67 tuổi sức khỏe đã giảm sút, chân đi tập tễnh, tóc đã trụi do nhiễm chất độc da cam nhưng bù lại anh có trí nhớ tuyệt vời. Dường như trong suốt cuộc nói chuyện anh nhớ tất cả từng ngày tháng, từng chi tiết, tên tuổi, địa chỉ từng đồng đội kể cả người còn sống và người đã chết. Từng vết thương của anh em trong tiểu đội, họ bị thương khi nào, ở đâu ? Nhờ vậy anh đã giúp được một số đồng đội xác minh thương tích để hưởng chế độ. Đặc biệt anh nhớ và đọc tên cả những cấp chỉ huy ngày đó từ sư đoàn đến đại đội của mình. Anh còn cho biết anh có thể nhớ và đọc vanh vách 60 - 70 số điện thoại của người thân và bạn bè. Trước kia anh làm đội trưởng quản lý 40 đầu xe của mỏ than, anh nhớ từng biển số xe của từng tổ lái không cần đến ghi chép bao giờ. Trong suốt 43 năm qua, hầu như ít người biết đến tên anh. Anh bảo từ hơn chục năm trở lại đây nhờ vào Ban liên lạc của sư đoàn 304 mà anh cũng được mời gọi tham gia vào một vài chương trình truyền hình của quân đội, năm 2015 anh cùng các đồng đội đã có cuộc gặp mặt tại lễ kỷ niệm 68 năm thành lập trung đoàn 9 tại Đông Sơn - Thanh Hóa, được chụp ảnh cùng nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, nguyên chính ủy trung đoàn 9 và các đồng đội. Tại cuộc gặp gỡ này báo chí cũng đã có những bài viết về anh và các đồng đội cùng tham gia chiếm dinh ngày ấy, tuy nhiên anh cho biết, tiền nong kinh phí hầu như anh em đều phải tự túc vậy nên gần đây anh cũng ít tham gia.
   Nghe anh kể cùng những tư liệu anh cho tôi xem, lòng tôi cũng trộn rộn một cảm xúc man mác buồn. Vì như anh nói, anh chỉ muốn những người làm lịch sử hãy công bằng với những gì mà người lính bộ binh như anh đã cống hiến. Đó là món ăn tinh thần động viên các anh trong cuộc sống hôm nay, đồng thời góp phần củng cố niềm tin cho các cựu chiến binh vào chế độ chứ tuyệt nhiên không phải là đòi hỏi quyền lợi gì.
                                                                     
                                                                          Đ/C: Bùi Nhật Lai
                                                                


                           NGƯỜI  QUẢN LÝ KHU QUẦN THỂ ĐỀN ĐUỔM
    Một chiều cuối đông tôi ghé thăm đền Đuổm không phải là đi lễ hay đi vãn cảnh đền mà tôi muốn tìm đến gặp anh bạn quen hiện là trưởng ban quản lý khu quần thể di tích lịch sử này. Chiều cuối đông, bầu trời xám bạc một màu mây, mặt trời trốn tịt trong những đám mây xám đó. Khu đền trở nên thâm nghiêm và trầm mặc hơn, chỉ có những người trong ban quản lý đền vẫn túc trực, đi lại làm việc trong khuôn viên đền. Tôi hỏi thăm một cậu nhận viên và được câu ta chỉ lên sân đền hạ bảo:
  - Chú cứ lên trên kia, sêp của cháu đang ở trên đó ạ !
  Theo cánh tay anh chỉ tôi đi lên sân đền hạ và đã thấy anh bạn đang ngồi tiếp chuyện một người khách, thấy tôi anh vội vãy tay mời tôi vào am cùng ngồi uống nước. Qua vài câu chào hỏi xã giao, sau khi tiễn khách, anh quay lại trò chuyện cùng tôi. Biết anh bận nên tôi cũng tranh thủ vào việc trao đổi với anh luôn về ý định của mình tìm đến gặp anh hôm nay. Anh vui vẻ tiệp chuyện rất chân tình và cởi mở!
   Là sỹ quan quân đội sau hơn 20 năm công tác tại sư đoàn 346 thuộc quân khu I, năm 1999 Nguyến Huy Hiệp về nghỉ hưu tại xóm Đuổm xã Động Đạt, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên chính là nơi có khu quần thể di tích lịch sự đền Đuổm. Là cán bộ đảng viên có nhiều thành tích trong quân đội vậy nên năm 2003 anh được cấp ủy chính quyền địa phương tín nhiệm cử làm Trưởng ban quản lý quần thể khu di tích lịch sử đền Đuổm. Đây là quần thể di tích lịch sử cấp quốc gia đã được Nhà nước công nhận, xếp hạng và rất nổi tiếng trong và ngoài tỉnh.
    Khi nhận nhiệm vụ này Nguyễn Thế Hiệp cho biết anh cũng không khỏi băn khoăn, trăn trở bởi anh nhận biết rõ tầm quan trọng và vai trò, vị trí của mình trong công tác mới mẻ này, vì đây không phải chỉ là việc trông coi khu đền theo một lẽ thường như bao người nghĩ, mà đó chính là mọi người đã tin tưởng trao cho anh trọng trách to lớn, bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử cũng như văn hóa của khu di tích này. Nỗi lo lắng nhất của anh khi mới nhận nhiệm vụ đó là làm sao phát huy được giá trị lịch sử của ngôi đền trong khi cơ sở vật chất của đền còn rất nghèo nàn, thiếu thốn như đền thờ và sân, đường nội tự vẫn chỉ là nền đất, đền đã xuống cấp trầm trọng. Để có được nguồn kinh phí trùng tu lại không phải chuyện đơn giản. Do kinh phí hạn hẹp nên ban quản lý đã có tờ trình với các ban ngành của địa phương các phương án trùng tu, tôn tạo lại đền. Với phương châm sửa chữa, tôn tạo từng phần, nơi nào xuống cấp hỏng nát sẽ sửa trước. May mắn là năm 2003 Nhà nước đã cấp kinh phí 1 tỷ đồng để trùng tu đền Trung, số tiền này được cấp từ nguồn vốn ngân sách quốc gia. Anh đã cùng các thành viên trong ban quản lý thực hiện việc giám sát thi công việc trùng tu đảm bảo cả về chất lượng công trình cũng như giá cả vật liệu được công khai minh bạch rõ ràng. Cùng với việc trùng tu đền, ban quan lý đã tham mưu với chính quyền địa phương các cấp tiến hành quy hoạch quần thể khu di tích bao gồm tất cả các hạng mục, từ cổng đền, sân đền và đường đi nội tự, sân lễ hội, hồ nước trước cửa đền, khu hành lễ, các khu nhà vệ sinh cũng như khu nhà làm việc của ban quản lý. Anh cũng cùng với ban quản lý đặt ra các quy định chặt chẽ đối với khách tham quan để bảo đảm sự an toàn về con người cũng như gìn giữ những cảnh quan môi trường, cây cối trong khu vực đền luôn xanh, sạch, đẹp trong các mùa lễ hội. Nhờ sự tham mưu đắc lực như vậy và nhận thấy rõ ý nghĩa to lớn của quần thể đền Đuổm, năm 2006 -2007 được sự quan tâm của các cấp chính quyền tỉnh, huyện và sự hỗ trợ tích cực của các mạnh thường quân trong cả nước khu quần thể được đầu tư 5 tỷ đồng để trùng tu và tôn tạo các hạng mục trong khu quần thể. Phải nói đây là sự chuyển động lớn trong nhận thức của các cấp lãnh đạo đối với khu di tích lịch sử này. Toàn bộ các hạng mục chính của khu di tích đã được trùng tu và tôn tạo. Việc đón tiếp khách thập phương về thăm viếng trong các mùa lễ hội ngày một tăng cao, điều này khẳng định việc đầu tư tôn tạo là đúng đắn, đem lại sự hài lòng và ngưỡng vọng cho du khách khắp nơi. Năm 2013 – 2015 Nhà nước lại đầu tư tiếp 3 tỷ để tiếp tục nâng cấp tôn tạo cho ngôi đền ngày một trở nên khang trang sạch đẹp hơn xứng với tầm quốc gia. Số vốn từ nguồn công đức của đền cũng được ban quản lý sử dụng đúng mục đích có sự giám sát chặt chẽ của các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương. Vì vậy mà giờ đây đến với đền Đuổm du khách có thể thấy rõ vẻ phong quang, môi trường xanh, sạch, đẹp hiện ra trước mắt. Các khu vực được quy hoạch rất khoa học, phù hợp cho không gian lễ hội văn hóa, các cảnh quan như cây xanh cũng là yếu tố rất quan trọng mà như anh Hiệp nói : “Nó là nền cho toàn khu quần thể”. Vì vậy việc chăm sóc và bảo vệ những cây cổ thụ trong khu đền luôn được ban quan lý quan tâm đặc biệt. Việc thường xuyên nhắc nhở trên loa đài mùa lễ hội cũng giúp người dân có ý thức tự giác trong việc bảo về cây xanh trong quần thể ngôi đền. Hiện tượng leo cây, bẻ cành, hái lộc như trước đây giờ đã không còn, không gian đền mang đậm dấu ấn cổ kính, trang nghiêm. Nhìn khung cảnh đó, tôi hỏi anh Hiệp:
  - Vậy hiện nay có điều gì còn làm anh lo lắng?
  Anh bảo tôi:
  - Lo lắng nhất vẫn là việc tổ chức đón tiếp du khách mùa lễ hội. Làm sao phải đảm bảo sự an toàn tuyệt đối cho tất cả mọi du khách. Vì vậy hầu như dịp lễ hội chính thường bắt đầu từ tháng 12 âm lịch năm trước kéo dài đến khoảng tháng 2 âm lịch năm sau. Ngoài ra trong các dịp mồng 1, ngày rằm hàng tháng đền cũng thường xuyến đón các đoàn khách từ khắp nơi về chiêm bái trong đó có cả nhưng đoàn khách nước ngoài. Hầu hết các thành viên ban quản lý phải căng mình ra túc trực liên tục 7 ngày /tuần.
  - Anh có thể cho biết sơ lược số lượng du khách trong những năm vừa qua về thăm viếng đền Đuổm như thế nào không?
  - Lượng khách thăm viếng đền mỗi năm một tăng, bình quân những năm gần đây đạt khoản 500 – 600 nghìn lượt người. Vì vậy khâu an ninh không tránh khỏi những khó khăn như sự ùn tắc các phương tiện, hay sự va chạm giáo thông… nhưng chúng tôi đã làm tốt khâu điều hành và quản lý của mình khiến mỗi mùa lễ hội luôn là những mùa hành hương đầy ý nghĩa và để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng khách thập phương.
  - Anh có thể cho biết số tiền công đức của nhân dân hàng năm thu được bao nhiêu và đã được sự dụng như thế nào không?
  - Số tiền công đức cũng tăng cao theo từng năm như năm 2013 thu được 140 triệu đồng, năm 2017 thu được 1,5 tỷ đồng. Tất cả số tiền đó được ban quan lý tiếp đón và chi tiêu, sử dụng đúng mục đích để củng cố và xây dựng công trình thêm bền vững, quy củ có hiệu quả nhằm phục vụ tốt du khách khắp nơi. Đó là kiến thiết, tu tạo, xây mới khuôn viên, nội tự đều là do ban quan lý tự đầu tư, tôn tạo và xây dựng. Các nhà đền chỉ đầu tư vào những hạng mục chính.
  - Vậy ban quản lý hiện có bao nhiều thành viên?
  - Ban của chúng tôi có tất cả 7 thành viên bao gồm: 1 trưởng ban, 2 phó ban đây là những cán bộ chuyên trách về văn hóa, một của xã, một của phòng văn hóa,1 thủ nhang, 1 hướng dẫn viên, 1 kế toán, 1 thủ quỹ, ngoài ra còn 1 tạp vụ kiêm thủ kho  đây là người làm hợp đồng với ban.
  Nghe anh nói và kể một cách mạch lạc rõ ràng không cần sổ sách tôi biết anh là người yêu công việc của mình, sống có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao. Công việc quản lý khu quần thể này đã làm anh trở nên gắn bó thân thiết với ngôi đền này nó là niềm vui sống của anh giữa bao khó nhọc của cuộc sống hiện nay. Được biết tính đến thời điểm này anh đã có 14 năm gắn bó với công việc quản lý khu di tích đền Đuổm, anh cũng là người có công lãnh đạo ban quản lý đảm bảo cho ngôi đền càng ngày, càng đẹp, bền, sẵn sàng chào đón du khách thập phương trong các mùa lễ hội.Với những công hiến của mình cho ngôi đền anh đã được nhận nhiều giấy khen và bằng khen của huyện, của tỉnh trong những năm qua. Với nụ cười thường trực trên môi và giọng nói nhẹ nhàng, điềm đạm, ngồi dưới bóng cây sy già đại thu trước sân đền, anh thủ thỉ kể cho tôi nghe những tháng ngày vất vả trong việc trùng tu xây dựng khu đền để đền Đuổm hôm nay khang trang, bền đẹp đem lại niềm tự hào cho mọi người dân Phú Lương nói riêng và Thái Nguyên nói chung. Tôi biết có một phần không nhỏ công sức của anh cùng ban quản lý đền!
                                                                           Chiều đông 6/01/2018
                                                                      
                                                                      Đ/C: Bùi Nhật Lai
                                                                 





 



            

No comments:

Post a Comment