Search This Blog

Sunday, August 17, 2014

 Nghiên cứu, trao đổi
                                        VÀI  SUY NGHĨ VỀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG

      
     Vốn văn hoá cổ truyền thống của các làng xã hiện nay có một bộ phận không nhỏ đang mất dần cùng với thời gian. Nguyên nhân nào dẫn tới sự biến mất của những ngôi nhà sàn, những bộ trang phục, những điệu múa, bài ca, những phong tục, tập quán… của làng quê hiện nay? Đây là câu hỏi khiến những người yêu mến vốn văn hoá cổ truyền, cảm thấy day dứt mà cũng đành bất lực trước thực tại cuộc sống hiện nay.
    Nông Viết Toại một nhà thơ người dân tộc Nùng là người rất quan tâm tới sự bảo tồn và gìn giữ vốn văn hoá cổ của dân tộc mình ông nói đại ý: “Hiện nay về làng bản của bà con các dân tộc thiểu số thấy thiếu vắng đi những bộ sắc phục của bà con, trong các lễ hội sự phục hồi lại các nghi lễ cũng không đáng là bao, tất cả đã bị đồng hoá mà tôi gọi đó là sự đồng hoá tự nguyện!” Nói như vậy có nghĩa là tất cả vốn văn hoá cổ của làng bản chúng ta đang đứng trước một thực tế là bị “xâm thực”, nhiều ngôi làng chỉ gần chục năm về trước thôi vẫn đầy những mái nhà sàn, bên những cọn nước kẽo kẹt quay cùng với bóng cọ che rợp nắng chiều thì nay đến đó ta chỉ còn thấy thấp thoáng một hai mái nhà sàn lẻ loi, siêu vẹo nằm chênh vênh ven đồi! Cọn nước thì đã biến mất từ lâu. Những đồi cọ khi xưa giờ đã bị chặt phá thay vào đó là chè, là vải, là keo… Điều đáng buồn là những ngôi nhà còn lại đó không phải là những ngôi nhà của những người muốn gìn giữ truyền thống văn hoá của dân tộc mình, khi được hỏi thì họ thật thà cho biết “nhà mình nghèo quá, ăn còn không đủ có tiền đâu mà xây nhà mái bằng, mái ngói, nên đành ở thế này thôi, chứ nếu có tiền buổi sáng thì buổi chiều mình lập tức phá nhà sàn này đi ngay để xây nhà mới!” Khi được hỏi:“ Gia đình có thích ở nhà xây hay thích ở nhà sàn như thế này? ” Thì hầu hết ai cũng cười và nói: “Ai mà chả thích nhà xây, chỉ vì không tiền nên phải ở thế này thôi, ở thế này vừa không an toàn và vừa không oai, không sang!” Thì ra đó là nhận thức rất thực tế của bà con mà tôi cho rằng “sự văn minh gạch ngói, bê tông đang toả sáng” đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, bởi thanh niên các làng bản hiện nay cũng đã sử dụng thành thạo điện thoại di động, biết vào quán “Nét”, biết nghe nhạc Tây và cũng biết nhảy “híp hốp”nữa…Từ những thực tế trên ta mới thấy câu nhận xét của nhà thơ Nông Viết Toại hàm ẩn những ý tứ khá sâu xa. Thì ra người dân tự nguyện xoá đi những vốn văn hoá của mình vì họ cho rằng nó không còn phù hợp với cuộc sống đương đại nữa, chứ có do sức ép nào đâu?! Họ có quyền và có đầy đủ lý lẽ để làm điều đó. Nói như vậy chúng ta cũng có thể so sánh, (mặc dù nó không được hay cho lắm) giống như những cô gái thôn quê, vốn lười nhác nhưng lại sính ăn diện, ưa nhàn hạ nên quyết tâm rời bỏ làng quê để lên phố và rồi để có ăn, có mặc họ chấp nhận làm tiếp viên cho các nhà hàng, quán hát một cách tự nguyện mà không hề có sự ép buộc nào! Như vậy chúng ta cũng không có lý gì cứ bắt buộc bà con phải giữ những phong tục, tập quán mà chính bản thân bà con cảm thấy nó không còn phù hợp nữa. Động viên, khuyến khích là cần thiết nhưng cũng không nhất thiết phải bắt bà con cố níu giữ những gì mà bà con cho là không còn phù hợp với cuộc sống hiện đại ngày nay. Đến đây tôi chợt nghĩ tới doanh thu của các công ty chế biến mì ăn liền trên toàn quốc, hàng tháng, hàng quý doanh thu của họ không ngừng tăng lên, điều này đồng nghĩa với việc doanh thu của các cơ sở làm mì gạo vốn là loại mì truyền thống của đồng bào ta, hiện càng ngày, càng giảm đi do lượng người dùng nó ngày càng hạn chế bởi sự bất tiện của nó.Vậy ta cũng không thể vì truyền thống mà cấm các công ty mì ăn liền ngừng sản xuất được!Vậy truyền thống ở đây liệu đã là hay? Tôi cũng chợt hiểu ra một điều: Truyền thống là cái gốc cần có và nó không thể thiếu trong các dịp lễ hội. Ví dụ : Tết nguyên đán bàn thờ người Việt không thể không có bánh chưng! Nhưng nếu vì truyền thống mà lễ hội nào chúng ta cũng đưa bánh chưng ra thì lại không ổn! Nhưng nói như vậy cũng không có nghĩa là ta khuyễn khích mọi người chối bỏ văn hoá truyền thống của dân tộc mà ta cần có sự nhìn nhận, chọn lọc từ trong kho báu truyền thống của mình những gì là tinh tuý, những gì là văn hoá truyền thống đích thực để từ đó có chế độ, chính sách duy trì, bảo vệ những vốn cổ văn hoá đó sao cho thật sự có hiệu quả chứ không phải chỉ là sự hô hào nhiều khi thái quá khiến mọi người cảm nhận đó là sự hô hào suông chả đem lại hiệu quả gì! Được biết hàng năm ngân sách nhà nước cũng như ngân sách địa phương đã chi hàng tỷ đồng cho việc phục hồi và tổ chức các lễ hội cho đồng bào, các phương tiện thông tin, tuyên truyền đại chúng cũng ra sức quảng bá cho các lễ hội này nhưng xem ra chất lượng thực của chúng không được như người ta mong đợi, nó không xứng với “đồng tiền, bát gạo” mà chúng ta bỏ ra, những cái chúng ta muốn duy trì, lưu giữ thì vẫn dần dần biến mất, những cái chúng ta muốn xoá bỏ thì nó lại cứ nảy sinh và hiện diện trong các lễ hội, như vậy quả là lợi thì ít mà hại thì nhiều ! Hàng năm cũng có hàng tỷ đồng được chi cho việc trùng tu các công trình, di tích văn hoá, lớn nhỏ khác nhau, nhưng việc tu tạo này cũng đã nảy sinh không ít những rắc rối mà gần đây báo chí gọi là “phá vỡ môi trường cảnh quan văn hoá của di tích” chẳng những di tích không tốt lên mà còn bị hư hại đi, vẻ cổ kính của chúng bị biến mất. Đó là chưa kể đến việc nhiều người đã lạm dụng những sự đầu tư này để trục lợi cho mình, gây ra những bức xúc trong nhân dân. Vậy phải làm gì để bảo tồn và phát triển những vốn văn hoá truyền thống tốt đẹp của dân tộc đây? Thiết nghĩ trước tiên những nhà quản lý văn hoá phải nắm vững và phân định rõ những vốn văn hoá truyền thống tốt đẹp mà ta cần lưu giữ, (trong đó bao gồm cả vốn văn hoá vật thể và vốn văn hoá phi vật thể) từ đó đưa ra những chiến lược hoạch định cụ thể, rõ ràng theo một lộ trình vạch sẵn. Tất nhiên những vốn văn hoá đó phải được cân nhắc, chọn lọc kỹ càng để đảm bảo bản thân những vốn văn hoá đó nếu được phục hồi, duy trì sẽ phát huy được hết những giá trị của nó góp phần đề cao và phát triển nền văn hoá của dân tộc. Làm được như vậy ta mới thật sự thấy bản sắc văn hoá có giá trị như thế nào với đời sống xã hội. Chứ không nhất thiết là cái gì cũng phải giữ, cái gì cũng phải trùng tu, tôn tạo. Sự đầu tư tiền bạc dàn trải như thời gian vừa qua, thực tế cho thấy không mấy hiệu quả mà dễ dẫn tới sự lộn sộn, khó quản lý, đồng thời dễ dẫn tới sự cục bộ trong nhân dân theo kiểu mạnh ai nấy làm, hễ có tiền là có thể tổ chức lễ hội, là có thể tự trùng tu, tự xây dựng đền đài, miếu mạo không theo một khuôn phép nào. Văn hoá của dân tộc tồn tại cùng văn hoá nhân loại, vậy nên ta cũng đừng ngại khi thấy mất đi một vài điệu múa hay một ngôi đền… mà ta đã cho đó là sự suy thoái của văn hoá. Quy luật phát triển của văn hoá nhân loại gắn liền với sự văn minh của thời đại, vì vậy ta cũng không nhất thiết bắt người nông dân cứ phải gắn mãi với chiếc áo gụ, chiếc nón lá, hay chiếc cối xay, cối giã mãi được! Bàn tính gỗ xưa là một phát minh vĩ đại và nó cũng là điểm đánh dấu sự văn minh của loài người, nhưng không vì truyền thống mà ta cứ dùng bàn tính mà không dùng máy vi tính …Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá ta không thể cứ bắt bà con phải ở nhà tường trình đất hay nhà sàn mái lá mãi được, cái văn minh mọi người, mọi dân tộc phải được thụ hưởng như nhau, ngoại trừ những gì bà con không muốn. Tất nhiên mọi sự so sánh đều là khập khiễng nhưng ta cũng cần phải có cái nhìn bao quát như thế mới thấy rõ vẫn đề, thời hiện đại, hội nhập chúng ta không thể bắt thanh niên bỏ nhạc hiện đại mà chỉ hát tuồng, hát chèo... Vì vậy ta cũng phải biết xây dựng nền văn hoá Việt trên nền tảng chung của văn hoá nhân loại. “Người ta sẽ lớn nhanh hơn khi biết đứng trên vai những người khổng lồ”! Để có thể biến “một ngày bằng 20 năm”ta cần có những cái nhìn mới về văn hoá truyền thống. Có lẽ đó cũng là một phương châm ta cần suy ngẫm và làm theo.
    Bản sắc văn hoá dân tộc không phải ngẫu nhiên mà có, nó được hình thành từ chính trong cuộc sống đấu tranh và lao động của các dân tộc. Phong tục, tập quan cũng từ đó mà có cùng với tín ngưỡng của con người nó dần ăn sâu vào tâm thức của nhân loại, cùng với thời gian, theo quy luật những gì phù hợp với xã hội sẽ tồn tại và phát triển, cái gì không phù hợp dần dần theo thời gian cũng sẽ mai một đi. Và cái cũ mất đi là cơ sở, tiền đề cho cái mới xuất hiện. Cái gì phù hợp với quy luật của tự nhiên sẽ tồn tại, trái với quy luật tự nhiên sẽ bị đào thải. Văn hoá cũng vậy nó luôn vận động và phát triển cùng với xã hội con người, có cái cũ mất đi và có cái mới hình thành. Những nhà quản lý văn hoá hơn ai hết cần nắm vững những quy luật phát triển ấy để từ đó có cái nhìn thấu đáo với môi trường văn hoá hiện nay.


No comments:

Post a Comment