Nghiên cứu, trao đổi
VÀI SUY NGHĨ VỀ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
Vốn văn hoá cổ truyền thống của các làng
xã hiện nay có một bộ phận không nhỏ đang mất dần cùng với thời gian. Nguyên
nhân nào dẫn tới sự biến mất của những ngôi nhà sàn, những bộ trang phục, những
điệu múa, bài ca, những phong tục, tập quán… của làng quê hiện nay? Đây là câu
hỏi khiến những người yêu mến vốn văn hoá cổ truyền, cảm thấy day dứt mà cũng
đành bất lực trước thực tại cuộc sống hiện nay.
Nông Viết Toại một nhà thơ người dân tộc
Nùng là người rất quan tâm tới sự bảo tồn và gìn giữ vốn văn hoá cổ của dân tộc
mình ông nói đại ý: “Hiện nay về làng bản của bà con các dân tộc thiểu số thấy
thiếu vắng đi những bộ sắc phục của bà con, trong các lễ hội sự phục hồi lại các
nghi lễ cũng không đáng là bao, tất cả đã bị đồng hoá mà tôi gọi đó là sự đồng
hoá tự nguyện!” Nói như vậy có nghĩa là tất cả vốn văn hoá cổ của làng bản
chúng ta đang đứng trước một thực tế là bị “xâm thực”, nhiều ngôi làng chỉ gần
chục năm về trước thôi vẫn đầy những mái nhà sàn, bên những cọn nước kẽo kẹt
quay cùng với bóng cọ che rợp nắng chiều thì nay đến đó ta chỉ còn thấy thấp
thoáng một hai mái nhà sàn lẻ loi, siêu vẹo nằm chênh vênh ven đồi! Cọn nước
thì đã biến mất từ lâu. Những đồi cọ khi xưa giờ đã bị chặt phá thay vào đó là
chè, là vải, là keo… Điều đáng buồn là những ngôi nhà còn lại đó không phải là
những ngôi nhà của những người muốn gìn giữ truyền thống văn hoá của dân tộc
mình, khi được hỏi thì họ thật thà cho biết “nhà mình nghèo quá, ăn còn không
đủ có tiền đâu mà xây nhà mái bằng, mái ngói, nên đành ở thế này thôi, chứ nếu
có tiền buổi sáng thì buổi chiều mình lập tức phá nhà sàn này đi ngay để xây
nhà mới!” Khi được hỏi:“ Gia đình có thích ở nhà xây hay thích ở nhà sàn như
thế này? ” Thì hầu hết ai cũng cười và nói: “Ai mà chả thích nhà xây, chỉ vì
không tiền nên phải ở thế này thôi, ở thế này vừa không an toàn và vừa không
oai, không sang!” Thì ra đó là nhận thức rất thực tế của bà con mà tôi cho rằng
“sự văn minh gạch ngói, bê tông đang toả sáng” đối với đồng bào các dân tộc
thiểu số, bởi thanh niên các làng bản hiện nay cũng đã sử dụng thành thạo điện
thoại di động, biết vào quán “Nét”, biết nghe nhạc Tây và cũng biết nhảy “híp
hốp”nữa…Từ những thực tế trên ta mới thấy câu nhận xét của nhà thơ Nông Viết
Toại hàm ẩn những ý tứ khá sâu xa. Thì ra người dân tự nguyện xoá đi những vốn
văn hoá của mình vì họ cho rằng nó không còn phù hợp với cuộc sống đương đại
nữa, chứ có do sức ép nào đâu?! Họ có quyền và có đầy đủ lý lẽ để làm điều đó.
Nói như vậy chúng ta cũng có thể so sánh, (mặc dù nó không được hay cho lắm)
giống như những cô gái thôn quê, vốn lười nhác nhưng lại sính ăn diện, ưa nhàn
hạ nên quyết tâm rời bỏ làng quê để lên phố và rồi để có ăn, có mặc họ chấp
nhận làm tiếp viên cho các nhà hàng, quán hát một cách tự nguyện mà không hề có
sự ép buộc nào! Như vậy chúng ta cũng không có lý gì cứ bắt buộc bà con phải
giữ những phong tục, tập quán mà chính bản thân bà con cảm thấy nó không còn
phù hợp nữa. Động viên, khuyến khích là cần thiết nhưng cũng không nhất thiết
phải bắt bà con cố níu giữ những gì mà bà con cho là không còn phù hợp với cuộc
sống hiện đại ngày nay. Đến đây tôi chợt nghĩ tới doanh thu của các công ty chế
biến mì ăn liền trên toàn quốc, hàng tháng, hàng quý doanh thu của họ không
ngừng tăng lên, điều này đồng nghĩa với việc doanh thu của các cơ sở làm mì gạo
vốn là loại mì truyền thống của đồng bào ta, hiện càng ngày, càng giảm đi do
lượng người dùng nó ngày càng hạn chế bởi sự bất tiện của nó.Vậy ta cũng không
thể vì truyền thống mà cấm các công ty mì ăn liền ngừng sản xuất được!Vậy
truyền thống ở đây liệu đã là hay? Tôi cũng chợt hiểu ra một điều: Truyền thống
là cái gốc cần có và nó không thể thiếu trong các dịp lễ hội. Ví dụ : Tết
nguyên đán bàn thờ người Việt không thể không có bánh chưng! Nhưng nếu vì
truyền thống mà lễ hội nào chúng ta cũng đưa bánh chưng ra thì lại không ổn!
Nhưng nói như vậy cũng không có nghĩa là ta khuyễn khích mọi người chối bỏ văn
hoá truyền thống của dân tộc mà ta cần có sự nhìn nhận, chọn lọc từ trong kho
báu truyền thống của mình những gì là tinh tuý, những gì là văn hoá truyền
thống đích thực để từ đó có chế độ, chính sách duy trì, bảo vệ những vốn cổ văn
hoá đó sao cho thật sự có hiệu quả chứ không phải chỉ là sự hô hào nhiều khi
thái quá khiến mọi người cảm nhận đó là sự hô hào suông chả đem lại hiệu quả
gì! Được biết hàng năm ngân sách nhà nước cũng như ngân sách địa phương đã chi
hàng tỷ đồng cho việc phục hồi và tổ chức các lễ hội cho đồng bào, các phương
tiện thông tin, tuyên truyền đại chúng cũng ra sức quảng bá cho các lễ hội này
nhưng xem ra chất lượng thực của chúng không được như người ta mong đợi, nó
không xứng với “đồng tiền, bát gạo” mà chúng ta bỏ ra, những cái chúng ta muốn
duy trì, lưu giữ thì vẫn dần dần biến mất, những cái chúng ta muốn xoá bỏ thì
nó lại cứ nảy sinh và hiện diện trong các lễ hội, như vậy quả là lợi thì ít mà
hại thì nhiều ! Hàng năm cũng có hàng tỷ đồng được chi cho việc trùng tu các
công trình, di tích văn hoá, lớn nhỏ khác nhau, nhưng việc tu tạo này cũng đã
nảy sinh không ít những rắc rối mà gần đây báo chí gọi là “phá vỡ môi trường
cảnh quan văn hoá của di tích” chẳng những di tích không tốt lên mà còn bị hư
hại đi, vẻ cổ kính của chúng bị biến mất. Đó là chưa kể đến việc nhiều người đã
lạm dụng những sự đầu tư này để trục lợi cho mình, gây ra những bức xúc trong
nhân dân. Vậy phải làm gì để bảo tồn và phát triển những vốn văn hoá truyền
thống tốt đẹp của dân tộc đây? Thiết nghĩ trước tiên những nhà quản lý văn hoá
phải nắm vững và phân định rõ những vốn văn hoá truyền thống tốt đẹp mà ta cần
lưu giữ, (trong đó bao gồm cả vốn văn hoá vật thể và vốn văn hoá phi vật thể)
từ đó đưa ra những chiến lược hoạch định cụ thể, rõ ràng theo một lộ trình vạch
sẵn. Tất nhiên những vốn văn hoá đó phải được cân nhắc, chọn lọc kỹ càng để đảm
bảo bản thân những vốn văn hoá đó nếu được phục hồi, duy trì sẽ phát huy được
hết những giá trị của nó góp phần đề cao và phát triển nền văn hoá của dân tộc.
Làm được như vậy ta mới thật sự thấy bản sắc văn hoá có giá trị như thế nào với
đời sống xã hội. Chứ không nhất thiết là cái gì cũng phải giữ, cái gì cũng phải
trùng tu, tôn tạo. Sự đầu tư tiền bạc dàn trải như thời gian vừa qua, thực tế
cho thấy không mấy hiệu quả mà dễ dẫn tới sự lộn sộn, khó quản lý, đồng thời dễ
dẫn tới sự cục bộ trong nhân dân theo kiểu mạnh ai nấy làm, hễ có tiền là có
thể tổ chức lễ hội, là có thể tự trùng tu, tự xây dựng đền đài, miếu mạo không
theo một khuôn phép nào. Văn hoá của dân tộc tồn tại cùng văn hoá nhân loại,
vậy nên ta cũng đừng ngại khi thấy mất đi một vài điệu múa hay một ngôi đền… mà
ta đã cho đó là sự suy thoái của văn hoá. Quy luật phát triển của văn hoá nhân
loại gắn liền với sự văn minh của thời đại, vì vậy ta cũng không nhất thiết bắt
người nông dân cứ phải gắn mãi với chiếc áo gụ, chiếc nón lá, hay chiếc cối
xay, cối giã mãi được! Bàn tính gỗ xưa là một phát minh vĩ đại và nó cũng là
điểm đánh dấu sự văn minh của loài người, nhưng không vì truyền thống mà ta cứ
dùng bàn tính mà không dùng máy vi tính …Thời đại công nghiệp hoá, hiện đại hoá
ta không thể cứ bắt bà con phải ở nhà tường trình đất hay nhà sàn mái lá mãi
được, cái văn minh mọi người, mọi dân tộc phải được thụ hưởng như nhau, ngoại
trừ những gì bà con không muốn. Tất nhiên mọi sự so sánh đều là khập khiễng
nhưng ta cũng cần phải có cái nhìn bao quát như thế mới thấy rõ vẫn đề, thời
hiện đại, hội nhập chúng ta không thể bắt thanh niên bỏ nhạc hiện đại mà chỉ
hát tuồng, hát chèo... Vì vậy ta cũng phải biết xây dựng nền văn hoá Việt trên
nền tảng chung của văn hoá nhân loại. “Người ta sẽ lớn nhanh hơn khi biết đứng
trên vai những người khổng lồ”! Để có thể biến “một ngày bằng 20 năm”ta cần có
những cái nhìn mới về văn hoá truyền thống. Có lẽ đó cũng là một phương châm ta
cần suy ngẫm và làm theo.
Bản sắc văn hoá dân tộc không phải ngẫu
nhiên mà có, nó được hình thành từ chính trong cuộc sống đấu tranh và lao động
của các dân tộc. Phong tục, tập quan cũng từ đó mà có cùng với tín ngưỡng của
con người nó dần ăn sâu vào tâm thức của nhân loại, cùng với thời gian, theo
quy luật những gì phù hợp với xã hội sẽ tồn tại và phát triển, cái gì không phù
hợp dần dần theo thời gian cũng sẽ mai một đi. Và cái cũ mất đi là cơ sở, tiền
đề cho cái mới xuất hiện. Cái gì phù hợp với quy luật của tự nhiên sẽ tồn tại,
trái với quy luật tự nhiên sẽ bị đào thải. Văn hoá cũng vậy nó luôn vận động và
phát triển cùng với xã hội con người, có cái cũ mất đi và có cái mới hình
thành. Những nhà quản lý văn hoá hơn ai hết cần nắm vững những quy luật phát
triển ấy để từ đó có cái nhìn thấu đáo với môi trường văn hoá hiện nay.
No comments:
Post a Comment